GIỚI CHUYÊN GIA ANH CẢNH BÁO VỀ TƯƠNG LAI DỊCH BỆNH: CÓ KHẢ NĂNG XUẤT HIỆN BIẾN CHỦNG CORONAVIRUS MỚI MANG ĐỘC TÍNH NHIỀU HƠN, VÀ CÓ KHẢ NĂNG GIẾT “1 TRONG 3 NGƯỜI BỊ NHIỄM”
Trong một báo cáo được công bố ngày 30/7/2021, các chuyên gia thuộc Nhóm Tư vấn Khoa học Tình huống Khẩn cấp của Vương quốc Anh (Scientific Advisory Group for Emergencies – SAGE) đã vạch ra khả năng một biến chúng mới có thể xuất hiện và có khả năng tránh được những loại vaccine con người đang sử dụng trong hiện tại. Họ cho rằng khả năng ấy là “gần như chắc chắn” sẽ xảy ra.
Báo cáo còn cho biết việc tiêu diệt hoàn toàn virus là “sẽ khó xảy ra” và giới khoa học “khá tự tin khi tuyên bố rằng sẽ luôn có các biến chủng mới xuất hiện trong tương lai gần”.
Họ đã xem xét một kịch bản mà trong đó, một biến chủng sẽ gây ra tình trạng bệnh nặng cho một tỷ lệ dân số lớn hơn so với các làn sóng lây nhiễm đã xảy ra trước đây, với tỷ lệ tử vong tương tự như các chủng coronavirus khác là SARS (10%) hoặc MERS (35%). Họ cảnh báo rằng khả năng xuất hiện một biến chủng nghiêm trọng hơn trong những trường hợp này là một “khả năng có thể xảy ra trên thực tế”.
Dưới đây là bản dịch của Hành tinh Titanic trên toàn bộ báo cáo này. Chúng tôi hy vọng người Việt Nam – đặc biệt giới hoạch định chính sách đối phó với khủng hoảng – nên quan tâm và tham khảo. Người Anh đang vạch ra các kịch bản rất cụ thể để đối phó với đại dịch, sau khi nếm mùi đau khổ. Điều đó khá có giá trị.
Chúng ta có thể dự báo giới hạn của các biến chủng của SARS-CoV-2 và hậu quả thể hiện ra bên ngoài thực tế của chúng hay không?
Vì khả năng có thể tiêu diệt được SARS-CoV-2 hoàn toàn sẽ khó xảy ra, chúng tôi tự tin khi khẳng định rằng, sẽ luôn có các biến chủng mới xuất hiện trong tương lai gần. Số lượng các biến chủng sẽ phụ thuộc vào những biện pháp kiểm soát dịch bệnh.
Chúng tôi mô tả các tình huống giả định mà virus SARS-CoV-2 có thể tiến hóa hơn nữa, và đạt được, thông qua quá trình đột biến, các kiểu hình di truyền đáng lo ngại, mà chúng tôi đang đánh giá tùy theo xác suất có thể xảy ra. Vì mục đích này, chúng tôi đang xem xét những kiểu đột biến trong ‘cơ thể’ của virus (các đoạn gene của virus được biểu hiện trong các tế bào bị nhiễm, kiểm soát quá trình sao chép mã [di truyền của virus] và cách tế bào phản ứng), mà có thể ảnh hưởng đến khả năng thích nghi của virus và gây ra mức độ bệnh lý nghiêm trọng, hoàn toàn tách rời riêng biệt với các kiểu đột biến trong glycoprotein gai/dằm của virus, mà có thể tác động đến khả năng lây lan virus và vượt qua [rào cản bảo vệ của] kháng thể.
Chúng tôi đánh giá các kịch bản nào có khả năng xảy ra nhất, và những tác động mà chúng có thể gây ra, cũng như xem xét liệu các kịch bản này có thể được làm giảm nhẹ hậu quả như thế nào. Chúng tôi cung cấp thông tin hỗ trợ dựa trên sự tiến hóa của SARS-CoV-2, các chủng coronavirus ở người và động vật, cũng như phác họa các điểm tương đồng với nhiều chủng loài virus khác.
Kịch bản số Một: Một biến chủng gây ra tình trạng bệnh lý nặng cho một tỷ lệ dân số lớn hơn so với những gì đã xảy ra cho đến nay. Ví dụ, với tỷ lệ mắc bệnh / tử vong tương tự đối với các chủng coronavirus gây bệnh truyền nhiễm từ động vật khác, như SARS-CoV (tỷ lệ tử vong ~ 10% trường hợp) hoặc MERS-CoV (~ 35% trường hợp tử vong). Điều này có thể xảy ra là do:
1. Khả năng “đột biến điểm” [đột biến xảy ra ở một (hoặc một cặp) nucleotide trong đoạn mã di truyền] hoặc tái tổ hợp với vật chủ hoặc đoạn gene của virus khác. Điều này có thể xảy ra do có sự thay đổi của các gene bên trong SARS-CoV-2 như chuỗi protein polymerase hoặc những protein phụ. Các đoạn gene này có vai trò quyết định đến kết cục của việc lây nhiễm, bằng cách ảnh hưởng đến cách mà tế bào vật chủ có thể cảm nhận được virus, tốc độ nhân lên của virus, và phản ứng chống virus của tế bào đối với sự lây nhiễm. Đã có các bằng chứng tiền lệ cho thấy nhiều chủng Coronavirus (CoVs) tạo ra được các đoạn gene hoặc trình tự di truyền bổ sung từ vật chủ, từ chính bản thân chúng hoặc từ các virus khác.
2. Bằng hiện tượng tái tổ hợp giữa hai loại biến chủng đáng quan ngại (variants of concern – VOCs) hoặc biến chủng đang được điều tra (variants under investigation – VUIs). Một loại có độ lệch đoạn di truyền cao (thay đổi trong chuỗi glycoprotein gai/dằm) so với đoạn gene glycoprotein gai/dằm hiện tại đang được sử dụng trong vaccine, và loại còn lại có khả năng sao chép và lây lan hiệu quả hơn được xác định nhờ bởi các gene [ở bên trong tế bào virus], chẳng hạn như sự tái tổ hợp giữa các biến chủng Beta và Alpha, hoặc giữa các biến chủng Delta tương ứng. Ngoài ra, sự tái tổ hợp này có thể xảy ra giữa hai biến chủng khác nhau, với hai chiến lược khác nhau để khắc phục khả năng miễn dịch bẩm sinh, kết hợp để tạo ra sự thay đổi cộng hưởng hoặc hiệp đồng của kiểu hình virus, tạo ra khả năng nhân lên nhiều hơn cho virus – và có khả năng tăng tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong.
Khả năng thay đổi kiểu di truyền ở các gene nằm bên trong virus: Có khả năng xảy ra nếu virus SARS-CoV-2 lưu hành rộng khắp.
Xác suất gia tăng kiểu hình virus với mức độ nghiêm trọng: Có thể xảy ra trong thực tế.
Đánh giá tác động: Mức cao. Trừ khi xuất hiện các thay đổi đáng kể trong trình tự chuỗi gene glycoprotein nơi gai/dằm của virus, thì các vaccine được chế tạo dựa trên đoạn glycoprotein gai/dằm hiện nay vẫn có khả năng tiếp tục cung cấp mức bảo vệ cao chống lại tình trạng bệnh trở nặng và nguy kịch. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong sẽ có thể gia tăng ngay cả khi đã tiêm chủng vì các vaccine hiện không thể tạo ra khả năng miễn dịch chống virus tuyệt đối, tức là chúng không hoàn toàn ngăn ngừa khả năng nhiễm bệnh ở hầu hết mọi cá nhân.
Chúng ta có thể làm gì được?
Cân nhắc các liều vaccine tăng cường để duy trì khả năng bảo vệ khỏi tình trạng bệnh trở nặng.
Giảm tỷ lệ lây lan SARS-CoV-2 ở bên trong nước Anh (để giảm nguy cơ xuất hiện đột biến điểm, tạo cơ hội cho tình huống tái tổ hợp).
Giảm thiểu khả năng nhiễm phải các biến chủng mới, có nguồn gốc từ các vùng lãnh thổ khác (để giảm nguy cơ tái tổ hợp giữa các biến chủng).
Giám sát có mục tiêu đối với dịch bệnh truyền ngược từ động vật [cho người], và nếu cần, hãy xem xét chặt chẽ các chính sách tiêm chủng, giết mổ hoặc cách ly động vật.
Tiếp tục theo dõi mức độ nghiêm trọng (trở nặng, nguy kịch) của bệnh lý có liên quan đến các biến chủng (để xác định sớm những thay đổi về kiểu hình virus).
Tiếp tục triển khai các loại thuốc dự phòng và điều trị cải tiến đối với SARS-CoV-2 và các triệu chứng bệnh lý.
Cân nhắc dự trữ thuốc điều trị và dự phòng cho SARS-CoV-2.
Kịch bản số Hai: Một biến chủng tránh được các vaccine hiện nay. Điều này có thể xảy ra vì:
3. Hiện tượng ‘dịch chuyển’ kháng nguyên: Các quá trình tái tổ hợp tự nhiên chèn thêm một trình tự di truyền gene gai/dằm khác (hoặc một phần của trình tự đó) từ chủng CoVs MERS-CoV của người (rất khó xảy ra do tần suất nhiễm MERS-CoV thấp), hoặc từ các chủng CoV đặc hữu (địa phương) đang lưu hành ở người (có khả năng xảy ra hơn do sự phổ biến rộng rãi của các loại virus này). Sự kiện này sẽ tái tổ hợp thành “cơ thể” của SARS-CoV-2, khiến virus có khả năng sao chép cao trong tế bào người. Hậu quả có thể là một loại virus gây bệnh ở cấp độ tương tự như COVID-19 khi nó mới xuất hiện, nhưng có khả năng chống lại các loại vaccine hiện tại đang được chế tạo dựa trên đoạn glycoprotein gai không hoạt động với chủng mới.
Xác suất xảy ra điều đó: Có thể xảy ra trong thực tế.
Đánh giá tác động: ở mức cao đối với bộ phận gai/dằm có kiểu gene hoàn toàn mới, ở mức trung bình hoặc thấp nếu bộ phận gai/dằm đến từ một chủng CoV xuất hiện theo mùa vì chúng ta hy vọng một bộ phận dân cư đông đã có kháng thể chống lại các virus đặc hữu rồi.
Chúng ta có thể làm gì được? Trong trường hợp xuất hiện một bộ phận ga/dằm có đoạn glycoprotein hoàn toàn khác, chúng ta sẽ cần triển khai nhanh chóng một nền tảng vaccine tương thích với nó, như đã được áp dụng thành công trên phiên bản gốc Vũ Hán của SARS-CoV-2 và các biến chủng tiếp theo. Tuy nhiên, chúng ta sẽ cần thêm một độ trễ thời gian cho việc triển khai khi mà các loại vaccine này cần phải được tạo ra với số lượng nhiều đủ để kiểm soát và giảm thiểu tác động của các case nhiễm bệnh.
4. Một phiên bản biến đổi trong dài hạn, mà ở đó, virus SARS-CoV-2 trải qua một sự kiện lây truyền ngược từ động vật sang một (hoặc các) vật chủ động vật khác. Sau đó, virus này tiến tới một quỹ đạo tiến hóa riêng biệt bởi vì động vật chứa virus phải trải qua các quá trình chọn lọc khác biệt so với ở người. Thế rồi, các thế hệ kế tiếp của virus SARS-CoV-2 này sẽ tái xuất hiện trong cơ thể người sau một khoảng thời gian dài, và cho dù các loại vaccine đã được cập nhật để theo kịp chính tốc độ biến đổi của virus ở cơ thể người và đủ để không bị lỗi thời so với sự biến đổi đó, thì chính sự lây truyền [từ chủng virus thế hệ sau của SARS-CoV-2 ở cơ thể động vật sang người sẽ khiến các vaccine chỉ tương thích cho sự biến đổi của SARS-CoV-2 ở cơ thể người] cũng không thể cung cấp khả năng bảo vệ chéo về mặt miễn dịch học.
Xác suất xảy ra điều đó: Có thể xảy ra trong thực tế.
Đánh giá tác động: ở mức Trung bình.
Chúng ta có thể làm gì được? Duy trì khả năng tạo ra vaccine cùng với các biến đổi protein gai/dằm mới/khác nhau, và bắt đầu phát triển khả năng miễn dịch chống CoV rộng hơn trong dân số loài người đối với các chủng coronavirus đa dạng. Ví dụ như, bắt đầu triển khai một loại vaccine phổ quát chống coronavirus có khả năng bảo vệ chéo mạnh mẽ ngay cả đối với các chủng CoV khác, mà chúng được nhận định là có tiềm năng sử dụng các đoạn protein trên virus khác thay vì chỉ có đoạn glycoprotein trên gai/dằm mà thôi.
5. Hiện tượng “trôi dạt” kháng nguyên: Là sự tích lũy dần dần hoặc từng đợt của các biến chủng có khả năng chống lại kháng nguyên, mà cuối cùng có thể làm cho các vaccine hiện tại thất bại trong việc chống dịch. Trường hợp tệ hại nhất xảy ra khi “sự trôi dạt” này kết hợp với lỗi kháng nguyên quan trọng (ví dụ như việc tiêm chủng dẫn đến một phản ứng miễn dịch bị chi phối bởi các kháng thể đã từng được tạo ra bởi các loại virus / vắc xin mà cơ thể từng bị mắc / được tiêm chủng trước đó), nghĩa là rất khó để tái tiêm chủng và tạo ra kháng thể chống các chủng virus mới [xuất hiện do cơ chế trên]. Sự trôi dạt di truyền và chống kháng nguyên là điều gần như không thể tránh khỏi. Lỗi kháng nguyên vẫn chưa được báo cáo đối với virus SARS-CoV-2 nên chúng tôi cho rằng khả năng này ít xảy ra hơn.
Xác suất xảy ra điều đó: Hầu như chắc chắn.
Đánh giá tác động: ở mức Trung bình.
Chúng ta có thể làm gì được? Cần tiếp tục tiêm chủng cho các nhóm tuổi dễ bị tổn thương theo định kỳ với các loại vaccine cập nhật chống các biến chủng ưu thế xuất hiện do hiện tượng trôi dạt kháng nguyên, để tăng khả năng bảo vệ miễn dịch của cá nhân chống lại các biến chủng của SARS-CoV-2.
Theo dõi chặt chẽ các biến chủng có khả năng chống kháng nguyên và cập nhật vaccine có tiềm năng kiểm soát ngay cả các biến chủng thoát được kháng nguyên.
Tiến hành các thử nghiệm lâm sàng về việc tái chủng ngừa bằng các vaccine phòng xa khả năng chống kháng nguyên.
Xem xét các thử nghiệm lâm sàng về vắc xin đa trị (multi-valent vaccines) / có độ phủ giá hiệu cao.
Tiêm chủng lại các nhóm tuổi dễ bị tổn thương theo định kỳ bằng các loại vaccine cập nhật đối với các biến chủng ưu thế xuất hiện do hiện tượng “trôi dạt kháng nguyên” để tăng mức độ đáp ứng miễn dịch của cá nhân đối với các biến chủng của SARS-CoV-2.
Làm giảm khả năng lây lan SARS-CoV-2 bên trong nước Anh (để giảm nguy cơ đột biến điểm, tái tổ hợp).
Giảm tối đa khả năng nhiễm phải các biến chủng mới, có nguồn gốc từ các vùng lãnh thổ khác (để giảm nguy cơ tái tổ hợp giữa các biến chủng).
Theo dõi các trường hợp nhiễm bệnh ngược từ động vật và nếu cần, hãy xem xét các chính sách tiêm chủng, giết mổ hoặc cách ly động vật.
Tiếp tục triển khai các loại thuốc dự phòng và điều trị cải tiến dành cho SARS-CoV-2.
Dự trữ thuốc điều trị và dự phòng dành cho SARS-CoV-2.
Kịch bản số Ba: Sự xuất hiện của một chủng virus kháng thuốc sau các chiến lược chống virus. Điều này có thể xảy ra do:
6. Sự xuất hiện của các biến chủng mới sau khi con người sử dụng các liệu pháp kháng virus có tác động trực tiếp. Khi chúng ta bắt đầu sử dụng các loại thuốc kháng virus có tác dụng trực tiếp, rất có khả năng xuất hiện một biến chủng mới được chọn lọc [tự nhiên] để có khả năng kháng các tác nhân riêng lẻ của thuốc / liệu pháp. Ví dụ như, các loại thuốc tấn công vào chuỗi protease 3C của virus, thuốc tấn công vào chuỗi polymerase, các kháng thể đơn dòng tập trung vào chuỗi glycoprotein ở bộ phận gai/dằm của virus… chẳng hạn. Nếu chúng ta dùng các loại thuốc này như một liệu pháp chữa trị đơn lẻ, thì các biến chủng kháng thuốc rất có khả năng xuất hiện cao. Việc này có thể làm cho tất cả các loại thuốc đang sử dụng trong danh mục đó không còn có thể sử dụng được nữa.
Xác suất xảy ra điều đó: Rất có thể – trừ khi chúng ta dùng thuốc đúng cách.
Đánh giá tác động: ở mức Trung bình, trừ khi có kịch bản xảy ra ở nơi mà các loại thuốc cần được sử dụng nhiều trên diện rộng.
Chúng ta có thể làm gì được? Sử dụng kiến thức sâu rộng về việc triển khai thuốc kháng virus chống lại các chủng virus RNA như HIV và cúm.
Chỉ sử dụng liệu pháp phối hợp kháng virus, sử dụng ≥2 (từ 2) loại thuốc với các mục tiêu hoặc cơ chế tác dụng khác nhau.
Duy trì việc sử dụng thuốc kháng virus trong trường hợp khẩn cấp, mà ở đó biến chủng của SARS-CoV-2 gây bệnh nặng hơn, trong khi vaccine phù hợp lại không có sẵn và cần thời gian để triển khai.
Sử dụng thuốc kháng virus một cách thận trọng ở những người bị suy giảm miễn dịch, mà từ đó có thể dẫn đến hiện tượng tiến hóa trong dài hạn [của virus] – theo dõi các trường hợp thất bại trong điều trị và kháng thuốc, giảm thiểu nguy cơ lây lan các biến chủng kháng thuốc bằng cách sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) thích hợp.
Kịch bản số Bốn: SARS-CoV-2 SARS-CoV-2 đi theo quỹ đạo tiến hóa với độc lực giảm. Điều này có thể xảy ra do:
7. Các biến chủng phát sinh với khả năng lây lan tăng lên, nhưng khả năng gây bệnh lý / tính độc lực giảm khi virus trở nên hoàn toàn thích nghi với vật chủ con người, trở thành một loại bệnh truyền nhiễm đặc hữu. Cuối cùng, cùng với khả năng miễn dịch trong quần thể cao, tình trạng lây nhiễm sẽ tạo ra ít bệnh lý hơn. Nói cách khác, virus này sẽ biến thành giống như một chủng CoV khác ở người, gây chứng cảm lạnh thông thường, nhưng với mức bệnh lý ít nghiêm trọng hơn, chủ yếu tấn công người già hoặc người dễ bị tổn thương về mặt lâm sàng.
Xác suất xảy ra điều đó: Không thể trong ngắn hạn, có thể xảy ra thực tế trong dài hạn.
Những cân nhắc chung để giảm hơn nữa tác động của các biến chủng:
8. Trong khi cảm thấy rằng các loại vaccine hiện nay là xuất sắc để giảm nguy cơ nhập viện và tăng nặng bệnh lý, chúng tôi đề xuất nên tập trung nghiên cứu vào các loại vaccine cũng tạo ra mức độ miễn dịch niêm mạc cao và có tính bền để giảm tình trạng nhiễm bệnh và lây lan từ những người đã được tiêm chủng. Điều này cũng có thể làm giảm khả năng xảy ra hiện tượng chọn lọc biến chủng ở những người đã được chủng ngừa.
9. Vương quốc Anh cần tiếp tục chủ động hỗ trợ một chiến lược tiêm chủng hiệu quả trên toàn thế giới nhằm giảm tải lượng virus toàn cầu, giảm khả năng xuất hiện các biến chủng nguy hiểm ở các khu vực khác trên thế giới.
10. Thực hiện một chiến lược dài hạn về giám sát bộ di truyền của SARS-CoV-2 trên phạm vi quốc gia và toàn cầu, để theo dõi các biến chủng và đánh giá nhanh tác động của chúng.
11. Việc chỉ giám sát bộ di truyền là không đủ vì kiểu hình thể hiện ra bên ngoài [của virus] sẽ không thể được dự báo rõ ràng. Do đó, chúng tôi kiến nghị nên đảm bảo luôn có sẵn khả năng đánh giá nhanh kiểu hình ngay trong phòng thí nghiệm của các biến chủng trên quy mô lớn để chạy đua cùng với các quan sát lâm sàng, nhằm đánh giá mức rủi ro so với các biến chủng hiện tại.
12. Đầu tư vào các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm mà có thể được sử dụng để dự báo khả năng tiến hóa về phía trước của các biến chủng và diễn giải sâu hơn việc giám sát bộ gene di truyền.
13. Với tình hình hiện tại về khả năng dự đoán của trí tuệ nhân tạo (AI) trong các hệ thống sinh học, chúng tôi khó có thể xác định các biến chủng có nguy cơ mới bằng cách sử dụng phương pháp này hiện nay. Chúng tôi đề xuất một chiến lược dài hạn, trong đó các hệ thống được thiết lập trong thời gian tạm ổn này để theo dõi và định dạng kiểu gene nhanh chóng, nhưng với dữ liệu có thể được tích hợp với các phương pháp AI để xây dựng nền tảng cho việc dự đoán sau này.
14. Chúng tôi khuyến nghị Vương quốc Anh dẫn đầu về các quy trình và thủ tục pháp lý để thu thập và chia sẻ nhanh chóng trình tự di truyền của virus, các nguyên liệu lâm sàng và sinh học, đặc biệt là việc phân lập các chủng virus, trên phạm vi toàn cầu. Điều này sẽ cho phép nghiên cứu và đánh giá nhanh chóng về mối đe dọa gây ra bởi các biến chủng mới.
15. Chúng tôi khuyến nghị thực hiện quy trình và phát triển năng lực để giảm thời gian xác định và sản xuất vaccine, cũng như các biện pháp đối phó y tế để giảm thiểu tác động của các biến chủng mới có tác động lâm sàng đáng kể hơn.
16. Chúng tôi khuyến nghị về việc nên sử dụng cẩn thận các loại thuốc kháng virus, vì trong tình huống phải đối mặt với mối đe dọa do các biến chủng mới gây ra, những lựa chọn trị liệu này là nguồn tài nguyên quý giá và không nên lãng phí.
Thông tin hỗ trợ:
17. Ngoài chủng CoV đặc hữu lâu đời nhất đang tồn tại ở người (NL63), trong 150 năm qua, đã có 5 cuộc xâm nhập của coronavirus được biết đến từ động vật vào cơ thể người, mà trong số này có 3 lần virus trở thành mầm bệnh đặc hữu ở người (các chủng 229E, OC43 & HKU1) và 2 lần gây bệnh hạn chế nhưng với tình trạng tăng nặng (là các chủng SARS-CoV & MERS-CoV). Do đó, việc những chủng CoV nơi động vật và truyền qua con người là một hệ quả phổ biến của việc con người gần gũi với động vật.
18. Kể từ khi bắt đầu bùng phát dịch SARS-CoV-2 ở Vũ Hán vào tháng 10 / tháng 11 năm 2019, ước tính đã có khoảng 175 triệu người bị nhiễm bệnh. Đợt bùng phát này đã chứng kiến nhiều làn sóng lây nhiễm, sau đó là sự xuất hiện của các biến chủng di truyền của virus, mỗi làn sóng đều có những lo ngại về sức khỏe cộng đồng tiềm ẩn khác nhau.
19. Virus SARS-CoV-2 sử dụng RNA làm vật liệu di truyền. Virus RNA được biết đến luôn gặp lỗi khi chúng tái tạo, dẫn đến các đột biến (tình huống thay đổi di truyền trong bộ gene), và do đó sẽ tích lũy một sự đa dạng di truyền theo thời gian.
20. Bộ gen của SARS-CoV-2 ở người và động vật bị nhiễm bệnh có thể và đã được giải trình tự đến mức tuyệt vời. Việc xác định trình tự vật chất di truyền của virus cung cấp thông tin về khả năng lây lan và tiến hóa của virus, và có khả năng cho phép dự báo những thay đổi trong bộ gene và xem xét chuyện đó có thể ảnh hưởng như thế nào đến các làn sóng lây nhiễm mới trong tương lai.
21. Hiện tượng biến đổi di truyền của một tác nhân gây bệnh do virus là một quá trình tự nhiên và sẽ luôn xảy ra. Tỷ lệ tích lũy di truyền tổng thể luôn thay đổi, và do đó nguy cơ xuất hiện một biến chủng mới với các đặc tính sinh học bị thay đổi sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ đột biến của virus, tỷ lệ nhiễm và lây lan bệnh, cũng như lợi thế của một biến chủng mới so với các biến chủng đồng lưu hành khác.
22. Khi một người (hoặc động vật) bị nhiễm SARS-CoV-2, nhiều virus có trình tự di truyền hơi khác nhau sẽ được tạo ra khi quá trình sao y / nhân lên xảy ra, dẫn đến một quần thể virus biến đổi trong cơ thể của một người.
23. Theo thời gian, tỷ lệ tương đối của các biến chủng SARS-CoV-2 sẽ thay đổi trong một cá thể duy nhất bị nhiễm bệnh, và các biến chủng nhất định này có thể chiếm ưu thế nếu chúng tạo ra loại virus có lợi thế thích nghi hơn. Quá trình này xảy ra cả trong các cá thể đơn lẻ bị nhiễm mầm bệnh lẫn trên toàn bộ quần thể khi các biến chủng được lây lan và truyền đi.
24. Trong quá trình bùng phát dịch SARS-CoV-2, một số biến chủng có lợi thế lây lan nhanh đã chiếm ưu thế trong các làn sóng lây nhiễm. Chúng bao gồm biến chủng Alpha và biến chủng Delta, đã thống trị làn sóng thứ hai và thứ ba ở Anh. Các biến chủng này nổi lên thông qua hiệu ứng lấn át và chọn lọc tự nhiên, thiên về xu hướng tăng khả năng lây truyền, cho phép Alpha và sau đó là Delta, có thể cạnh tranh với các biến chủng trước đó. Ngoài ra, các biến chủng Beta và Gamma đã lưu hành ở Nam Phi và Brazil có thể có lợi thế về mặt thích ứng, vì chúng có khả năng vượt qua kháng nguyên rất hiệu quả so với chủng virus trong làn sóng lây nhiễm đầu tiên, cũng như có thể tái lây nhiễm hiệu quả hơn.
25. Một số qui trình khác biệt có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc tăng cao tần số đột biến / biến chủng, và không phải tất cả những thay đổi đã quan sát được về tần số biến chủng đều là do tác động của tự nhiên. Chúng ta không thể dự báo chắc chắn bất cứ gì hoặc khi nào thì các biến chủng mới sẽ xuất hiện, hoặc ý nghĩa kiểu hình của chúng. Việc đánh giá các luồng dữ liệu đa dạng, bao gồm đặc điểm di truyền, xu hướng dịch tễ học và các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về đặc tính có thể đo lường được của virus, là cần thiết để đánh giá tầm quan trọng của các biến chủng mới. Điều có thể khẳng định chính là càng nhiều virus lưu hành thì số lượng biến chủng càng lớn.
26. Bản thân việc quan sát thấy một đột biến hoặc biến chủng đã gia tăng tần suất (hoặc thậm chí trở nên cố định) không phải là bằng chứng đủ để kết luận rằng, điều đó bao hàm cả lợi thế chọn lọc tự nhiên đối với virus. Các biến chủng mới có thể gia tăng tần suất do những sự kiện không liên quan đến hiệu ứng chức năng của các đột biến mà nó sở hữu, đặc biệt khi số lượng case nhiễm thấp (ví dụ như: virus lây lan đến một nơi địa lý mới, còn được gọi là hiệu ứng “khởi nghiệp / lấn át”). Hơn nữa, một đột biến không quan trọng có thể gia tăng tần suất bởi vì nó tình cờ xuất hiện trên cùng một bộ gene với một đột biến khác có lợi cho virus (còn gọi là hiệu ứng “quá giang chuyến xe di truyền”). Do đó, điều cần thiết là phải sử dụng tất cả dữ liệu có sẵn để xác định xem những thay đổi về tần suất tuyệt đối và tương đối là kết quả của một biến chủng “may mắn hơn” hay “có tính thích nghi hơn”.
27. Các đột biến cho phép các biến chủng lây nhiễm sang vật chủ mới nhanh chóng và hiệu quả hơn sẽ được chọn lọc tự nhiên ưa thích và có thể tăng tần suất. Các đột biến tăng cường khả năng lây lan về phía trước có thể liên quan đến nhiều khía cạnh sinh học khác nhau của virus, bao gồm những thay đổi về mức độ nghiêm trọng của bệnh lý, nguyên nhân động lực học của sự truyền nhiễm, khả năng tăng cường cơ hội phát tán hoặc liên kết với tế bào vật chủ của virus, khả năng tránh né các phản ứng miễn dịch…
Thay đổi di truyền xảy ra như thế nào trong SARS-COV-2?
28. Sự thay đổi di truyền trong virus SARS-CoV-2 có thể xảy ra theo một số cách: đột biến điểm do lỗi sao chép chuỗi polymerase, dẫn đến hiện tượng đa hình nucleotide đơn (single nucleotide polymorphisms) và sự tái tổ hợp cho phép thu nhận vật liệu di truyền mới bao gồm từ cả virus lẫn vật chủ.
Phân tử RNA được xây dựng từ các đơn vị protein, được gọi là các nucleotide. Chúng có thể là một trong bốn loại khác nhau: A, G, C hoặc U. Bộ gen RNA của SARS-CoV-2 có chiều dài khoảng 30.000 nucleotide. Mỗi khi bộ máy nhân bản của virus sao chép bộ gene này, sự thay đổi ngẫu nhiên về mặt di truyền có thể xảy ra. Ví dụ, một nucleotide A tại một vị trí cụ thể trên bộ gene có thể thay đổi thành nucleotide U. Hiện tượng này được gọi là đa hình nucleotide đơn, hay SNP (single nucleotide polymorphisms). Tỷ lệ lỗi nội tại của quá trình sao chép bộ gene của coronavirus sẽ theo thứ tự từ 1 × 10-6 đến 1 × 10-7 đột biến với mỗi nucleotide trong mỗi lần nhân bản bộ gene (tức là 1 đột biến xảy ra khi có từ 1 đến 10 triệu nucleotide được sao chép). Vì bộ gene của virus dài đến khoảng 30.000 nucleotide, nên cứ khoảng sau từ 33 đến 330 lần sao chép, thì lại có 1 đột biến sẽ xuất hiện.Ở một người bị nhiễm bệnh, số lượng cao nhất của bộ gene virus sẽ vượt quá 100 triệu bộ; do đó, vi rút có khả năng gây đột biến ở mọi nucleotide trong bộ gene của nó lên hàng trăm lần ngay bên trong một người bị nhiễm, và do đó, việc các biến chủng xuất hiện là chuyện bình thường. Nhiều SNP không làm thay đổi chuỗi amino acid, nhưng nhiều SNP gây ra những thay đổi làm tăng độc tính, và một số lại tương thích với một loại virus có thể tồn tại được, và chính những yếu tố này có thể dẫn đến những thay đổi nơi chuỗi amino acid trong protein của virus, làm cho chúng mang những đặc tính sinh học mới. Một minh chứng cho điều này là đột biến D614G SNP, một đặc tính sinh học xác định khi có sự thay đổi nơi chuỗi amino acid trong glycoprotein gai/dằm của virus, dẫn đến một sự thay đổi từ dòng B sang dòng B1 ngay khi đại dịch bùng phát. Việc đánh giá kiểu hình virus cho thấy chính sự thay đổi này làm gia tăng khả năng lây lan, vì nó tăng cường khả năng liên kết của protein gai/dằm của virus với thụ thể ACE2.
Tái tổ hợp là quá trình virus hoán đổi vật chất di truyền giữa các bộ gene với nhau, tạo ra các tổ hợp trình tự di truyền mới. Hiện tượng này có thể gây ra một số tác động nhất định: các phần của bộ gene có thể bị xóa, hoặc các trình tự mới có thể được kết hợp vào bộ gene dưới dạng các đoạn chèn nhỏ hoặc toàn bộ các gene phụ tạo ra một dạng virus có đặc tính lai mới (chimeric virus). Trình tự mới có thể được thu nhận từ cùng một chủng coronavirus hoặc từ một nguồn RNA khác hoàn toàn. Ví dụ, SARS-CoV-2 được cho là đã phát sinh bởi (các) sự kiện tái tổ hợp giữa coronavirus động vật khác và / hoặc RNA vật chủ nhiễm phải. Sự hiện diện của vị trí phân cắt furin protease (là nhóm enzym thủy phân có khả năng cắt mối liên kết peptide) tại điểm nối S1 / S2 trong đoạn gene glycoprotein gai/dằm của SARS-CoV-2 là kết quả của một sự tái tổ hợp như vậy. Vị trí furin này có liên quan đến tình trạng gia tăng dịch bệnh và lây lan trên các mô hình nghiên cứu ở động vật. Điều quan trọng là, một số vùng nhất định của bộ gene coronavirus có tần suất tái tổ hợp cao hơn, vì vậy được gọi là ‘điểm nóng’, một trong số đó xảy ra ở đoạn gene gai/dằm, thúc đẩy hiện tượng tái tổ hợp có thể dẫn đến việc sử dụng thụ thể mới (đường xâm nhập tế bào) của virus và làm thay đổi chủng virus hoặc hữu tính tế bào (cell type tropism).
29. Hiện tượng tích lũy những thay đổi của di truyền đem đến hậu quả là sự xuất hiện của các biến chủng mới. Những thay đổi này có thể là trung tính (không có tác dụng gì cả), tăng độc tính (giảm khả năng thích nghi của virus trong cơ thể vật chủ) hoặc mang lại lợi thế (làm tăng mức độ thích nghi của virus đối với vật chủ bị nhiễm), tùy theo áp lực lựa chọn (selection pressure) của chọn lọc tự nhiên.
30. Các biến chủng của SARS-CoV-2 liên tục được tạo ra trong quá trình lây nhiễm, và những biến chủng này cung cấp nguyên liệu thô để virus phản ứng với các áp lực chọn lọc (selection pressure) khác nhau. Việc giữ cho mức độ SARS-CoV-2 ở trong nước Anh và trên toàn cầu ở mức thấp thông qua tiêm chủng và / hoặc cách ly / ngăn chặn sẽ làm giảm số lượng các biến chủng có thể xuất hiện trong tương lai.
Đâu là những hiệu ứng của sự biến đổi di truyền đối với đặc tính sinh học bộ gen của virus và chức năng của protein?
31. Một sự thay đổi trong kiểu gene (thông tin di truyền) của virus không phải lúc nào cũng gắn liền với sự thay đổi trong kiểu hình (là đặc điểm bệnh lý có thể quan sát được khi vật chủ lây nhiễm). Tuy nhiên, đôi khi, một sự thay đổi trong trình tự di truyền của virus có thể liên quan đến thay đổi về khả năng lây lan, mức độ gây bệnh nghiêm trọng hoặc các đặc tính khác, ví dụ như tính nhạy cảm với kiểm soát miễn dịch, vaccine hoặc thuốc chữa.
32. Ví dụ về những thay đổi trong trình tự di truyền của SARS-CoV-2 đã có liên quan đến những thay đổi trong kiểu hình của nó đã được chứng kiến trong khu vực đoạn glycoprotein gai/dằm của tất cả các biến chủng đáng quan ngại (VOCs). Ví dụ, đột biến xảy ra ở vị trí P681H nơi bộ phận gai/dằm của biến chủng Alpha đã được chứng minh là làm tăng hiệu quả phân cắt furin, tăng cường mở cánh cửa giúp virus xâm nhập vào tế bào. Ngoài ra, biến chủng Alpha còn chứa các đột biến quan trọng khác trong số các chuỗi đột biến xác định đặc thù cho chủng Alpha. Một sự biến mất trong đoạn protein gai/dằm ΔH69 / ΔV70 (Δ = a đoạn biến mất) có liên quan đến khả năng lây nhiễm cao hơn, so với chủng hoang dã, và một đột biến nữa xảy ra ở vị trí N501Y nơi gai/dằm của virus đã tăng cường khả năng tương tác với thụ thể ACE2.
33. Một số cấu trúc RNA và chuỗi protein trong virus là rất quan trọng đối với đặc tính sinh học và khả năng lây lan của virus, và do đó, các đột biến ở những khu vực này có thể làm virus biến mất (và do đó không được lây truyền nữa). Tuy nhiên, các khu vực khác lại không mang đặc tính thiết yếu đối với các chức năng quan trọng của virus. Ví dụ như, có một số biến chủng không còn các protein có liên quan đến khả năng phá hủy phản ứng miễn dịch bẩm sinh. Một trong số này được xác định đã xảy ra trong vùng gene ORF8 của SARS-CoV-2 ở các bệnh nhân tại Singapore. Việc mất đi đoạn gene này có liên quan đến dạng hồ sơ bệnh lý nhẹ hơn. Ngược lại, biến chủng B.1.1.7 có một đột biến dẫn đến thay đổi một số gene, bao gồm mất đoạn ở nsp6, đột biến ở protein ORF8, và các đột biến ảnh hưởng đến khả năng sản xuất các phiên bản mới của protein virus, cùng với các đột biến xảy ra nơi chuỗi glycoprotein gai / dằm, được mô tả trong số 32 ở phía trên. Biến chủng Alpha có khả năng lây truyền cao hơn so với các chủng trước đó, nhưng lại khó xác định được mối quan hệ của nó với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong gia tăng, và kể từ đó, biến chủng này đã bị vượt mặt bởi những biến chủng khác. Do đó, toàn thể bộ gene của virus và tập hợp hoàn chỉnh của các protein virus luôn góp phần quan trọng trong việc tạo nên một kiểu hình phức tạp cho virus.
Chúng ta có thể học được gì từ coronavirus ở động vật và điều này được áp dụng như thế nào đối với SARS-CoV-2?
34. Các chủng loài coronavirus đã được nghiên cứu trong nhiều thập kỷ, và những gì đã xảy ra trong các trường hợp nhiễm coronavirus khác ở người và động vật có thể phác họa lên bức tranh về hành trình tiến hóa của SARS-CoV-2.
35. Các biến chủng có thể dẫn đến trường hợp vượt thoát khỏi [mức hiệu quả] các loại vaccine hiện nay. Virus truyền nhiễm gây chứng viêm phế quản (Infectious bronchitis virus – IBV) là một loại coronavirus lây nhiễm nơi gà, chủ yếu gây ra bệnh đường hô hấp. Sự dịch chuyển vị trí, mất đoạn và tái tổ hợp gene giữa các IBV từ các dòng di truyền khác nhau đã góp phần tạo nên một quần thể các chủng IBV phức tạp. Như đã chứng kiến ở SARS-CoV-2, việc tập trung vào vùng gai/dằm S1 của virus đủ để tạo ra khả năng miễn dịch bảo vệ tốt. Tuy nhiên, chỉ một số khác biệt di truyền xuất hiện nơi chuỗi amino acid trong đoạn gene glycoprotein nơi gai/dằm của IBV đã gây ra tác động bất lợi đến việc bảo vệ miễn dịch, mà từ đó, một số lượng lớn các đột biến thoát kháng nguyên đã tiến hóa lên. Trình tự bộ gene glycoprotein của khu vực gai/dằm mà vaccine hiện đang lấy từ một biến chủng để tạo ra khả năng miễn dịch càng xa rời so với các đột biến mới cũng tại vị trí này, thì khả năng miễn dịch bảo vệ chéo được tạo ra bởi vaccine càng ít đi. Dù vaccine có thể kiểm soát được tình hình bệnh tật, ví dụ như đối với SARS-CoV-2, thì có thể vẫn còn khả năng lây lan mầm bệnh mà không biểu hiện triệu chứng bệnh lý, dẫn đến khả năng virus tiến hóa xa hơn. Các chiến lược vaccine hiện tại đối với chủng IBV đang ứng dụng việc kết hợp giữa chủng ngừa ban đầu với vaccine sử dụng virus sống có giảm độc lực ( live attenuated vaccines), sau đó tăng cường bằng một liều vaccine bất hoạt (inactivated vaccines) để cung cấp khả năng bảo vệ chéo, nhưng tùy chọn này không khả dụng đối với SARS-CoV-2.
36. Những thay đổi căn bản trong cơ chế sinh bệnh (pathogenesis) có thể xảy ra nơi một cá thể bị nhiễm bệnh thông qua sự thay đổi về mặt di truyền trong các chủng coronavirus ở động vật. Ở 10% số mèo bị nhiễm coronavirus đường ruột (FeCV), các đột biến thường xảy ra trong bộ gene của virus, nhiều đột biến tập trung tại vị trí phân cắt furin (furin cleavage site) trong chuỗi glycoprotein nơi khu vực gai/dằm của virus. Cơ chế này làm cho các tế bào bạch cầu bị nhiễm virus và gây ra một căn bệnh mới, với virus viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (FIPV) với tỷ lệ nhiễm và tử vong cao hơn. Những thay đổi tương tự cũng được quan sát thấy ở chủng IBV, nơi các biến chủng gây ra tình trạng bệnh lý nặng hơn bằng cách lây nhiễm sang thận, ống dẫn trứng và tinh hoàn. Đối với SARS-CoV-2, đột biến ở vị trí phân cắt furin có liên quan đến khả năng gia tăng độc lực và lây lan mầm bệnh. Tuy nhiên, các biến chủng có kiểu hình [thể hiện triệu chứng ra bên ngoài] rất khác nhau vẫn chưa được quan sát thấy ở SARS-CoV-2, cũng như đối với các chủng coronavirus tồn tại ở người theo mùa.
37. Các biến chủng mới có thể phát sinh thông qua những mối tương tác giữa chủng hoang dã và chủng vaccine. Virus viêm dạ dày ruột có thể lây lan được (chủng TGEV – transmissible gastroenteritis virus), một loại coronavirus lây nhiễm ở heo/lợn, có tính chất gần tương đồng với virus đặc hữu gây tiêu chảy ở lợn/heo (chủng PEDV – porcine epidemic diarrhoea virus). Chuột và mèo cũng có thể đóng vai trò như những ổ chứa giúp lây lan PEDV. Các kiểu gen khác nhau (biến chủng) của PEDV có thể mang độc lực cao, dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh từ 80-100% và tỷ lệ tử vong lên đến 100% ở lợn. Những chủng virus như vậy đã phát sinh thông qua sự tái tổ hợp giữa các dòng TGEV có ở trong vaccine sử dụng mầm bệnh sống có giảm độc lực với các dòng PEDV đang lưu hành và gây bệnh. Đây là một đặc điểm thường thấy xuất hiện nơi vaccine coronavirus trong thế giới động vật, và nơi các chủng virus có quan hệ họ hàng gần gũi với nhau, ví dụ như virus thuộc họ Arteriviridae (arteriviruses). Phân tích này gợi ý rằng chúng ta nên chống lại bất kỳ động thái chuyển sang sử dụng vaccine sử dụng mầm bệnh sống có giảm độc lực đối với SARS-CoV-2.
38. Các loài coronavirus mới ở người có thể có nguồn gốc từ động vật đã được thuần hóa. Chủng HCoV-OC43 được cho là có nguồn gốc từ gia súc vào thế kỷ 19, có thể xuất hiện sau một sự kiện tái tổ hợp, cho phép chúng thu được một gene mới từ virus cúm (influenza virus). Sự kiện này chỉ báo rõ ràng tính chất linh hoạt của bộ gene virus và khả năng khiến các loài động vật được thuần hóa trở thành nguồn dự trữ các biến chủng mới của SARS-CoV-2, mà có thể xâm nhập trở lại vào người.
Cho đến nay, chúng ta đã chứng kiến những kiểu thay đổi nào nơi SARS-CoV-2, và chúng ta có thể trông đợi điều gì xảy ra sắp tới?
39. Cho dù những thay đổi về di truyền được tích lũy một cách ngẫu nhiên, các yếu tố môi trường vẫn được xác định tạo nên áp lực chọn lọc (selection pressure) mà sẽ ảnh hưởng đến việc liệu sự thay đổi di truyền đó có tăng hay giảm khả năng hoạt động và thích nghi của virus, và do đó tăng hay giảm mầm bệnh trong quần thể. Trong trường hợp của SARS-CoV-2, có những áp lực chọn lọc cụ thể đáng quan tâm hơn, vì chúng có thể tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các biến chủng gây hại hơn hoặc khó kiểm soát hơn.
40. Chúng ta đang chứng kiến một mức độ tiến hóa hội tụ đáng chú ý rõ ràng trong số các biến chủng của SARS-CoV-2 đã xuất hiện cho đến nay. Trong các sự kiện tổ hợp gene khác nhau và dùng những thay đổi mã hóa gene hơi khác nhau, tất cả các biến chủng đều mang đột biến ở protein gai/dằm, có vẻ như để tăng cường mối liên kết trực tiếp với thụ thể ACE2, tạo ra sự xuất hiện của vùng liên kết thụ thể (receptor binding domain), và thường nâng cao khả năng xâm nhập thông qua vị trí phân cắt furin, là điểm mồi [trung gian] cho sự hợp nhất [giữa virus và tế bào vật chủ]. Các biến chủng cũng chứa các đột biến ở nhiều phần khác của bộ gene, có khả năng tăng cường hoạt động của chuỗi polymerase (vị trí đột biến P323L trong đoạn gene nsp12), hoặc ảnh hưởng đến khả năng trung hòa của virus đối với phản ứng bẩm sinh của vật chủ (đột biến thay đổi sang đoạn gene ORF8, mất đoạn nsp6, và thay đổi phổ biểu hiện di truyền của virus). Chúng ta chứng kiến nhiều sự kiện chèn vào và xóa mất, cũng như kiểu đa hình nucleotide đơn (SNP), nhưng cho đến nay, virus vẫn chưa sở hữu được bất kỳ bộ gene hoàn toàn mới nào. Khi cùng kết hợp lại với nhau, các chuỗi đột biến nở rộ cũng tăng cường mối tương tác của virus với vật chủ mới là con người. Với việc có thêm thông tin về cách thức tương tác của SARS-CoV-2 với tế bào người, chúng ta có thể dự báo được một số khả năng liên quan đến bước tiến hóa tiếp theo của virus.
41. Ví dụ như, hệ thống miễn dịch interferon
[giải thích thêm: Interferon là một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, ký sinh trùng và tế bào ung thư. Interferon thuộc một lớp lớn của glycoprotein được biết đến dưới cái tên cytokine (chất hoạt hoá tế bào). Interferon đóng vai trò quan trọng trong cửa ngõ miễn dịch, nó là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus và sự phát triển bất thường của tế bào. Nó là một phần của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu (non-specific immune system) và được kích hoạt bởi giai đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm trước khi hệ miễn dịch đặc hiệu (specific immune system) có thời gian để phản ứng. Cần phân biệt interferon nội sinh được sinh ra trong cơ thể và interferon ngoại sinh do nuôi cấy tế bào ngoài cơ thể.]
là yếu tố quyết định chính dẫn đến biểu hiện của bệnh lý, những cá nhân thiếu hụt interferon dễ biến chứng trầm trọng. Hệ thống miễn dịch interferon hoạt động bằng cách cảm thụ sự hiện diện của virus đang xâm nhập, và phản ứng bằng cách tiết ra hàng trăm protein vật chủ có hoạt tính kháng virus.Các dữ liệu mới thu được cho thấy biến chủng Alpha đã tiến hóa khiến cho tế bào bị nhiễm ít cảm thụ được kẻ thù xâm nhập hơn. Dự kiến việc chuyển tiếp bằng cách tái tổ hợp các yếu tố di truyền quyết định kiểu hình này sang các biến chủng kia, hoặc việc virus thu nhận độc lập [các đột biến] bằng quá trình tiến hóa về phía trước, sẽ làm tăng khả năng lây truyền và mức độ gây bệnh nghiêm trọng, bằng cách tạo ra sự cân bằng có lợi cho virus hơn là vật chủ.
42. Ví dụ thứ hai chính là khả năng virus có được các chất đối kháng chống lại hệ thống interferon bổ sung bằng cách tái tổ hợp. Các dữ liệu mới thu được cho thấy một gene kích thích interferon đặc biệt mạnh – là oligoadenylate synthetase 1 (OAS1) – có khả năng kiểm soát khả năng sao chép của SARS-CoV-2 trong các tế bào bị nhiễm. Biểu hiện của OAS1 làm giảm số lượng nhân lên của virus và kiểm soát mức độ lây nhiễm. Các chủng coronavirus khác cũng nhạy cảm với đoạn gene OAS1, nhưng đã khắc phục được nhược điểm này bằng cách thu nhận một loại enzyme gọi là PDE từ vật chủ. Giới chuyên gia dự báo rằng nếu SARS-CoV-2 thu được enzyme PDE bằng cách tái tổ hợp với một chủng coronavirus khác ở người, ví dụ như từ chủng OC43 hoặc từ tế bào chủ, thì khả năng nhân bản chống lại phản ứng miễn dịch của hệ thống interferon sẽ tăng lên, và sự kiện này sẽ làm cho virus lây lan và gây bệnh cao hơn.
43. Vì vaccine chống lại SARS-CoV-2 được triển khai trên các quần thể dân cư, nên có thể tạo ra một áp lực chọn lọc (selection pressure) đối với các biến chủng có thể thoát khỏi phản ứng miễn dịch do vaccine tạo ra. Trong vài tháng qua, một số biến chủng đã xuất hiện, có khả năng làm giảm độ nhạy cảm đối với khả năng miễn dịch [mà vaccine đã tạo được cho cơ thể], mặc dù không có biến chủng nào dường như thoát khỏi hoàn toàn [dược lực của vaccine]. Những biến chủng này phần lớn xuất hiện trước khi phong trào tiêm chủng được phổ biến rộng rãi, và do đó áp lực chọn lọc do vaccine tạo ra có khả năng không tác động gì đáng kể vào sự xuất hiện của chúng. Tuy nhiên, khi các vaccines ngày càng được triển khai phổ biến, lợi thế lây truyền mà một chủng virus tạo lập được có thể vượt qua khả năng miễn dịch do vaccine tạo ra, và xu hướng này sẽ tăng lên.
44. Mức độ virus thoát khỏi tầm truy quét của vaccine là rất khó dự báo. Protein gai/dằm nơi virus SARS-CoV-2 dường như khá linh hoạt và có thể tạo ra / chứa được nhiều đột biến mới, tương tự như những gì đang xảy ra nơi các chủng coronavirus ở động vật. Việc truy quét sâu vào các đột biến đã được ứng dụng để cố gắng dự báo xu hướng xuất hiện những đột biến (đơn lẻ) nào đó sẽ xảy ra nơi khu vực gai/dằm, mà sẽ tránh né được các kháng thể. Cho đến nay, các cách tiếp cận trên đều sử dụng những phương pháp nhân tạo để tạo ra và thể hiện các biến chủng mang thay đổi ở khu vực gai/dằm, như nấm men, thể thực khuẩn hoặc biểu hiện trên một loại virus khác, là VSV. Không có loại nào trong số thí nghiệm này cho phép chúng ta hiểu được phổ thể hiện đầy đủ các khả năng đột biến do chuỗi polymerase của coronavirus tạo ra. Tuy nhiên, các đột biến quan trọng đã từng được dự báo bằng các phương pháp luận này, chẳng hạn như đột biến ở vị trí E484K, nơi vùng liên kết thụ thể ở gai/dằm của virus, là đột biến có tiềm năng [thoát miễn dịch] mạnh mẽ nhất trong số tất cả các đột biến điểm đơn lẻ được chứng kiến cho đến nay.
45. Việc sử dụng các liệu pháp chống virus cũng tạo ra áp lực chọn lọc đối với sự tiến triển của tình trạng kháng thuốc, khi loại virus có thể tránh né được tiến trình trị liệu sẽ nhân lên nhiều hơn, và có thể sẵn sàng lây truyền sang người khác, dễ như đã từng xảy ra với các loại thuốc chống cúm. Thật vậy, tất cả các loại thuốc kháng virus được sử dụng cho đến nay (chống lại HIV, virus herpes, virus cúm) đều tạo ra các đột biến kháng thuốc, làm hạn chế hiệu quả của thuốc. Trong trường hợp ứng dụng liệu pháp chống virus có dùng nhiều hơn một loại thuốc kháng (tức là liệu pháp kết hợp), thì sự xuất hiện của các biến chủng kháng thuốc ít có khả năng xảy ra hơn. Những cách dùng thuốc kết hợp này có tác dụng giữ cho tải lượng virus ở mức rất thấp, và do đó, về mặt dữ liệu thống kê, thì có ít biến thể xuất hiện hơn. Nếu liệu pháp kết hợp được sử dụng cho SARS-CoV-2, thì virus sẽ cần phải phát triển khả năng kháng nhiều loại thuốc, cùng đồng thời tạo bản sao của điều đó nhiều hơn [trong bộ gene], và chuyện này khó xảy ra hơn. Do đó, phải hết sức thận trọng trong việc triển khai các loại thuốc chống SARS-CoV-2, đặc biệt trong trường hợp trị liệu chỉ dùng một loại thuốc.
46. Ở vật chủ bị suy giảm miễn dịch, hiện tượng nhân lên và phát tán của virus có thể kéo dài nhiều hơn mức bình thường. Điều kiện này làm gia tăng khả năng xuất hiện của các biến chủng có khả năng tránh né hệ miễn dịch, đặc biệt là dưới áp lực của liệu pháp dùng kháng thể đơn dòng tập trung vào protein gai/dằm hoặc điều trị bằng huyết tương giàu kháng thể (convalescent plasma treatment), một lần nữa chủ yếu tập trung vào chuỗi glycoprotein gai/dằm. Các nghiên cứu điển hình đã ghi nhận sự xuất hiện của một số lượng lớn các biến đổi gene bất thường ở virus nơi những người bị ức chế miễn dịch được điều trị bằng huyết tương dưỡng bệnh.
47. Quá trình tiến hóa của virus ở vật chủ bị suy giảm hệ miễn dịch có thể là một phương pháp mà nhờ đó, virus vượt qua và thích nghi được một môi trường thể chất, thông qua việc tích lũy các chuỗi đột biến nở rộ, tạo ra những kiểu hình và dạng đột biến tương tác át chế (epistatic mutations) để bù đắp cho những mất mát về thể chất [do tình trạng sức khỏe của vật chủ gây ra]. Điều đáng chú ý chính là tất cả các chủng SARS-CoV-2 đáng quan ngại (VOCs) hiện nay đều mang các chuỗi đột biến nở rộ trên bộ gene, với ý nghĩa rằng chúng hoặc vừa tiến hóa trong quá trình lây nhiễm dai dẳng lâu dài, vừa xảy ra trong các trường hợp lây lan mầm bệnh dữ dội với nhiều nút thắt chọn lọc, hoặc vừa xảy ra trong môi trường vật chủ được duy trì liên tục nhưng không được ghi nhận việc nhiễm bệnh. Mặt khác, chúng ta cần lưu ý là các đột biến điểm đơn lẻ xuất hiện trên các chủng đáng quan ngại (VOCs) như Alpha và Delta vẫn không (chưa) nổi lên để chiếm ưu thế so với các chủng VOC hiện nay.
48. Các biến chủng có thể thay đổi khả năng lây lan virus, dẫn đến những phương thức lây nhiễm mầm bệnh khác nhau bên trong cộng đồng hoặc dân số có liên quan đến các đặc tính tiềm ẩn mới, ví dụ như lây truyền qua đường miệng chứ không phải qua đường hô hấp. Việc kiểm tra các chủng coronavirus khác ở động vật và người cho thấy sự lây lan qua đường miệng hoặc qua phân thải ra có thể xuất hiện như một đường lây nhiễm bổ sung hiệu quả, như các case nhiễm và lây lan SARS-CoV trong Khu phức hợp Amoy Garden (Hong Kong). Hiện chưa có bằng chứng về các đường lây truyền thay thế của SARS-CoV-2, nhưng biến chủng Delta có liên quan đến tình trạng tăng tần suất các triệu chứng qua đường tiêu hóa (GI symptoms).
49. SARS-CoV-2 có thể lây nhiễm sang nhiều loài động vật cả trong tự nhiên / trang trại (chẳng hạn như chồn hương – minks), động vật được thí nghiệm (một số loài linh trưởng không thuộc lớp người, chuột, chuột cống, chồn và chuột hamster), lẫn động vật sống chung với người (như mèo và chó). SARS-CoV-2 được cho là có nguồn gốc từ loài dơi. Do đó, SARS-CoV-2 có phạm vi ký sinh vật chủ rộng và có khả năng lây truyền trao đổi liên tục giữa người và động vật (ví dụ như ở trại nuôi chồn hương – minks), và điều này có thể dẫn đến quá trình tạo ra và chọn lọc các biến chủng mới.
50. Các case nhiễm bệnh trong trang trại nuôi chồn hương đã được quan sát thấy trên khắp thế giới. Sự hiện diện rộng rãi của virus trong quần thể động vật sẽ khiến cho việc diệt trừ virus thậm chí khó xảy ra hơn. Có thể có mức độ khác nhau về nguy cơ phơi nhiễm và khả năng xuất hiện các biến chủng mới giữa động vật nuôi – farmed animals (mật độ cao) và động vật sống chung với người – companion animals. Trong cả hai trường hợp, việc lây truyền ngược từ động vật có thể xảy ra (đã chứng kiến ở Đan Mạch từ chồn hương). Các ổ chứa động vật gây bệnh có thể dẫn đến một quần thể lây nhiễm mầm bệnh lớn, mở rộng các chủng loài virus với khả năng gây ra những thay đổi biến chủng mạnh mẽ trong tương lai ở virus, thông qua hiện tượng tái tổ hợp với một loài coronavirus khác đã phổ biến trong quần thể loài động vật đó, giống như sự thay đổi kháng nguyên ở virus cúm khiến tạo ra các đặc tính mới của virus.
51. Tình trạng tái nhiễm sau khi đã nhiễm SARS-CoV-2 được mô tả kỹ trong các báo cáo trường hợp điển hình. Tần suất tái nhiễm và các yếu tố tăng nguy cơ dễ mắc phải vẫn chưa được hiểu rõ. Các chứng cứ đang xuất hiện từ những thống kê nhóm thuần tập theo chiều dọc (longitudinal cohorts) của Cơ quan Y tế Cộng đồng Vương quốc Anh (PHE) và trên các công bố khoa học quốc tế, rằng lần nhiễm bệnh trước thường cung cấp khả năng bảo vệ khỏi việc bị tái nhiễm trong khoảng thời gian ít nhất là 9-12 tháng ở hầu hết mọi người. Các ước tính SIREN về khả năng miễn dịch và lượng giá tái nhiễm SARS-CoV-2 (Sarscov2 Immunity & REinfection EvaluatioN), trên một nhóm thuần tập nhân viên y tế (HCW cohort) quốc gia lớn và từ nghiên cứu nội bộ của PHE Care đã chỉ ra rằng, việc tái nhiễm xảy ra ở ít hơn <5% cá nhân, và rằng hồ sơ huyết thanh trong các trường hợp tái nhiễm cho thấy mức độ thấp của kháng thể trung hòa thấp gây ra tình trạng nhạy cảm với mầm bệnh. Tuy nhiên, hầu hết các dữ liệu này đều có liên quan đến các chủng đáng quan ngại VOC Alpha, và những dữ liệu này có thể thay đổi khi các chủng VOC Delta được xem xét thêm vào nghiên cứu. Tình trạng tái nhiễm có khả năng thúc đẩy các biến chủng khác xuất hiện trong tương lai.
52. Đáp ứng miễn dịch đối với SARS-CoV-2 liên quan đến nhiều cơ chế, bao gồm khả năng phòng thủ bẩm sinh, các kháng thể, tế bào lympho T và tế bào lympho B. Trong khi các kháng thể trung hòa virus thường chống lại những vị trí cụ thể bị phơi nhiễm/dễ tiếp xúc trên bề mặt các protein của virus, tế bào lympho T có khả năng nhận diện những phân đoạn peptide đến từ một loạt các protein của virus, mà các protein này vẫn có thể được duy trì giữa các biến chủng virus khác nhau, làm giảm khả năng xuất hiện tình trạng virus thoát miễn dịch. Việc nhiễm SARS-CoV-2 gây ra các phản ứng mạnh mẽ nơi tế bào lympho T, có thể tạo ra thêm nhiều áp lực chọn lọc cho sự tiến hóa của SARS-CoV-2. Ví dụ như, có một số gợi ý cho rằng, ngoài việc tăng khả năng lây lan và mức độ thoát kháng thể, biến chủng Delta còn thoát khỏi sự truy quét của tế bào lympho T nơi hệ thống kháng nguyên bạch cầu người (HLA – Human Leukocyte Antigen) phổ biến ở Châu Á. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết được chính xác cần bao nhiêu đột biến có khả năng tránh thoát điểm kháng nguyên (epitope) của tế bào lympho T để có thể làm giảm khả năng miễn dịch của tế bào T này, và liệu có sự phân cấp của các điểm kháng nguyên quan trọng nơi tế bào T hay không.
[giải thích thêm: epitope, còn gọi là quyết định kháng nguyên (antigenic determinant), là vị trí cấu trúc trên một phân tử kháng nguyên có thể phản ứng với một kiểu cấu trúc hóa học của phân tử kháng thể hoặc phân tử thụ thể ở trong máu hoặc trên tế bào miễn dịch. Một kháng nguyên có thể có một hoặc nhiều epitope. Do có nhiều epitope nên kháng nguyên có thể gây phản ứng chéo giữa các kháng nguyên có cùng 1 epitope, hoặc 1 epitope cũng có thể có 2 kháng thể phản ứng đặc hiệu, song giữa các phản ứng khác nhau đó có thể có ái lực liên kết khác nhau do cấu trúc phân tử không gian của các liên kết là khác nhau. Thường thì phân tử kháng nguyên càng lớn thì thường càng có nhiều epitope. Liên kết epitope có thể xảy ra với các kháng thể tự do hoặc liên kết với một ma trận ngoại bào. Vị trí của kháng nguyên được tiếp xúc với kháng thể được gọi là epitope và vị trí của kháng thể liên kết với epitope được gọi là paratope. Paratope nằm ở đầu khu vực biến đổi của kháng thể và sẽ có thể liên kết với một epitope duy nhất. Vaccine dựa trên epitope sẽ giúp quản lý tốt hơn phản ứng chéo mong muốn và không mong muốn. Việc nghiên cứu các công cụ sinh học phân tử, cùng với các thí nghiệm nhất định trên các tế bào T để xác định epitopes của các tế bào này, có thể đưa ra phương hướng xử lý tự nhiên một số mầm bệnh. Trong tương lai, những kỹ thuật này sẽ đẩy nhanh sự phát triển của vaccine thế hệ mới dựa trên các tế bào lympho T, có tác dụng chống lại một số bệnh khó chữa.]
53. Các biện pháp can thiệp không cần đến trị liệu dược phẩm, như đeo khẩu trang và giãn cách xã hội, sẽ định hình môi trường mà virus đang lây lan và có thể đóng vai trò như những áp lực chọn lọc đối với xu hướng lây nhiễm bệnh nào cao hơn. Ví dụ như, ở những nơi có áp dụng giãn cách xã hội, chủng virus nào có khả năng truyền qua không khí tốt hơn thì có thể có lợi thế thích nghi tốt hơn, và do đó, chúng có khả năng tồn tại và nhân rộng tốt hơn.
54. Nếu một thay đổi di truyền có lợi cho vi rút phát sinh dưới bất kỳ áp lực chọn lọc nào trong số này, thì không có gì đảm bảo rằng virus đó sẽ vươn lên tầm thống trị. Nếu sự thay đổi [đem lại lợi thế] xảy ra cùng với những thay đổi có hại khác, thì biến chủng mang thay đổi có thể biến mất, vì không thu được lợi ích tổng thể nào từ tổ hợp này. Ngay cả khi biến chủng đó hoàn thiện hơn những biến chủng khác, thì để vươn lên thống trị, nó cũng phải có khả năng lây lan giữa người và trong cộng đồng. Nếu khả năng pha trộn và lây truyền trong quần thể thấp, các biến chủng mới sẽ ít có khả năng lan rộng.
Thuốc kháng virus có thể tạo ra một áp lực chọn lọc lớn trong việc xuất hiện các biến chủng kháng thuốc.
55. Quá trình nhân lên của SARS-CoV-2 dẫn đến nhiều biểu hiện lâm sàng của bệnh COVID-19. Các loại thuốc kháng virus đặc hiệu, hoạt động bằng cách ức chế hoặc ngăn chặn sự nhân lên của virus, và do đó giảm thiểu tác động của tình trạng tổn thương mô do SARS-CoV-2 gây ra, đang được nghiên cứu để điều trị COVID-19.
56. Đối với thuốc kháng virus, điều quan trọng là phải tìm ra được các mục tiêu mà virus có thể bị ức chế một cách chọn lọc, để rồi giảm thiểu tác động đến tiến trình nhân lên của tế bào chủ. Thông thường, chúng ta có thể tập trung vào các điểm chính sau đây trong chu kỳ sao bản của virus:
Đường xâm nhập của virus (thông qua thụ thể enzyme chuyển đổi angiotensin 2 [ACE2] và protease serine xuyên màng 2 [TMPRSS2]).
Quy trình hợp nhất màng virus và tham gia nội bào – nhập bào (endocytosis).
Quy trình sao chép virus liên quan đến chuỗi phức hợp RNA polymerase phụ thuộc RNA.
Quy trình tổng hợp protein hoặc RNA của virus, liên quan đến hoạt động của các enzym trong virus, chẳng hạn như chuỗi protease 3-chymotrypsin (3CLpro) có đặc tính giống SARS-CoV-2.
57. Việc trung hòa các kháng thể đơn dòng (mAb – monoclonal Antibodies) đã được cho phép sử dụng khẩn cấp, và gần đây đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị triệu chứng của bệnh. Lớp phân tử này là một cách tiếp cận hấp dẫn và linh hoạt để trị liệu các bệnh nhiễm virus mới xuất hiện. Liệu pháp đơn mô thức (monotherapy) dùng chỉ một loại kháng thể đơn dòng mAbs có mục tiêu trị liệu đơn lẻ có khả năng tạo áp lực cho sự xuất hiện của các biến chủng virus mới. Sự phối hợp các mAbs mới cung cấp một rào cản cao hơn cho sự xuất hiện của các biến chủng kháng thuốc mới. Hoạt động của mAbs cũng có thể bị suy giảm do các biến chủng thoát khỏi kháng thể miễn dịch được tạo ra sau khi khỏi bệnh hoặc nhờ tiêm chủng.
58. Không có tiền lệ lịch sử nào về việc kê đơn hàng loạt thuốc kháng virus trong cộng đồng để chữa bệnh, ngoài việc sử dụng Thuốc Ức chế Neuraminidase chống cúm, được sử dụng ở mức độ hạn chế theo cách này trong giai đoạn đầu của Đại dịch Cúm năm 2009 ở Vương quốc Anh. Hồ sơ an toàn và hiệu quả [của thuốc] phải được thiết lập cực kỳ tốt để bảo đảm chiến lược quản lý dược phẩm trên diện rộng phải hoạt động tốt, cũng như nếu không tuân thủ được điều đó thì sẽ có thể nhanh chóng dẫn đến sự xuất hiện của các biến chủng kháng thuốc, khiến cho chiến lược điều trị đó chỉ có thể tồn tại trong một thời gian ngắn mà thôi.
59. Liệu pháp kết hợp được công nhận là một cách giảm thiểu khả năng tránh né của virus, thường bao gồm từ hai loại thuốc trở lên, hoặc áp dụng thuốc và / hoặc mAbs kết hợp tập trung vào các chức năng khác nhau của virus, tạo ra một rào cản cao hơn chống lại sự tiến hóa của khả năng kháng thuốc ở virus. Tuy nhiên, việc áp dụng hàng loạt liệu pháp kết hợp này là một chiến lược thậm chí còn rất khó để đạt được.
NHẬN ĐỊNH CỦA HÀNH TINH TITANIC:
Phải chăng hệ thống kháng nguyên bạch cầu người (HLA) phổ biến ở người Châu Á đã chống được chủng Alpha (ở Châu Âu) và các chủng coronavirus nguyên thủy đến từ từ Vũ Hán (Trung Quốc), nhưng lại tạo cơ hội cho biến chủng Delta xuất hiện và mang độc tính cao hơn? Đã có một số gợi ý như vậy từ Hành tinh Titanic trước đây. Trong tương lai, điều đó có thể được phân tích rõ ràng hơn khi ngành sinh học phân tử tiến tới hiểu được các cơ chế epitopes của kháng nguyên và kháng thể. Hãy để ý xem, các biến chủng của coronavirus từ trước đây cho đến nay đều xuất hiện tại Châu Á, với dải địa lý gần vùng nhiệt đới xích đạo, từ Vân Nam Trung Quốc cho đến Trung Đông và bây giờ là Ấn Độ. Các chủng đáng quan ngại khác, bao gồm Lambda, cũng xuất hiện tại Nam Phi, Ấn Độ và Brazil.
Phải chăng chính kho thuốc (bao gồm cả vaccine Astrazenecca) của Ấn Độ đã làm xuất hiện biến chủng Delta? Việc sử dụng thuốc điều trị dòng đơn đối với chủng SARS-CoV-2 cần phải rất thận trọng. Phải có sự phối hợp của các dược liệu khác nhau để tấn công các đặc tính sinh học của virus cùng một lúc. Tránh để virus thông qua áp lực chọn lọc mà kháng thuốc bằng một đặc tính sinh học nào đó. Thế nhưng, với việc đại dịch tràn lan trên diện rộng và số người nhập viện lớn, hệ thống y tế sẽ không đủ sức để bao quát và đưa ra những phác đồ an toàn và thông minh nhất.
Phải chăng vaccine tiêm thẳng vào máu chỉ có hiệu quả chống bệnh khi virus xâm nhập vào sâu trong phế quản, màng phổi và mao mạch phổi, còn thì không thể ngăn cản các ổ chứa mầm bệnh ở màng nhầy cuống họng, mũi và nhiều vị trí bên ngoài đường thở khác? Hiện nay, nhiều công ty dược phẩm đang nghĩ cách chế tạo các loại vaccine và thuốc để hít có tác dụng trung hòa virus. Nhưng rõ ràng là, các biện pháp xông hơi tinh dầu của phương Đông cũng có tác dụng nào đó đối với khu vực này.
Phải chăng chính nếp sống căng thẳng, tâm lý không được ổn định, đã làm yếu đi khả năng cảm thụ của hệ thần kinh miễn dịch, từ đó không thể kích hoạt được các đợt tấn công của kháng thể chống lại chủng Delta? Mời các bạn xem lại bài TIÊM CHỦNG HAY THAY ĐỔI LỐI SỐNG? để hiểu vấn đề này hơn.
Việc gia tăng đột biến nơi vị trí cắt furin của coronavirus (nhờ nghiên cứu trong quá khứ, các biểu hiện trong hiện tại, và dự báo tương lai, trên động vật cũng như trên con người) cũng có hàm ý về xuất thân tự nhiên của SARS-CoV-2 là từ tự nhiên? Tốt nhất là ngưng các thuyết âm mưu mang tính chủ quan chính trị lại và tập trung đối phó với mối nguy hiểm trước mắt.
Vì vậy, xác suất để xuất hiện một biến chủng mới luôn luôn chắc chắn xảy ra trong tương lai, vì các yếu tố sau:
1. Con người để virus lây lan quá nhiều và quá nhanh trên diện rộng, trong phần đông dân số gần 8 tỷ vật chủ. Đây sẽ là môi trường để virus tạo bản sao, tha hồ thí nghiệm đột biến, và chọn ra các biến chủng phù hợp nhất để lại tấn công vật chủ. Chính con người đã phát động bài toán cấp số nhân này nơi virus, vì không thể tự điều chỉnh nền kinh tế tập trung lợi nhuận không giới hạn và thói quen sinh hoạt tiêu dùng vô độ của mình.
2. Con người lây cho động vật, và sau đó bị lây truyền ngược từ động vật với một biến chủng thế hệ sau đó, với các đặc tính sinh học hoàn toàn mới. Đây có thể là một nguồn cung ứng biến chủng mới. Vì vậy, con người nên ngưng tiếp xúc với động vật nuôi và hoang dã, nếu không muốn tiến tới đối mặt với các nguy cơ sinh học mới.
3. Chính việc dùng thuốc và vaccine không đủ rộng, không đủ mạnh, không đủ bao quát, không đủ sự phối hợp thông minh, cũng như tình trạng hệ thống y tế bị vỡ trận, đã khiến cho virus có khả năng vượt qua hàng rào phòng ngự miễn dịch và xuất hiện các chủng mới có khả năng kháng thuốc và tránh né được mức bảo vệ của vaccine. chúng ta nên chống lại bất kỳ động thái chuyển sang sử dụng vaccine sử dụng mầm bệnh sống có giảm độc lực đối với SARS-CoV-2, vì các loại virus có khả năng tái tổ hợp/kết hợp bộ gene với nhau để sinh ra một chủng mới.
Thế nhưng, sẽ là bất khả thi để toàn bộ 8 tỷ con người tìm được một phương cách điều trị hoặc tiêm chủng nào đó ngay lập tức, nhất là mỗi khi có biến chủng mới xuất hiện. Quay trở lại vấn đề đó, chúng tôi nhận thấy loài người cần thay đổi ý thức và cách sinh hoạt của mình để chống dịch. Đó mới là điều căn bản có thể thực hiện được, dễ tiếp cận và luôn có sẵn. Hãy lấy ví dụ nhé: nếu 8 tỷ người cùng đeo khẩu trang, tôn trọng giãn cách khi sinh hoạt, ý thức bảo vệ cộng đồng, thu hẹp mối quan hệ xã hội, chỉ giao tiếp với những đối tượng cần thiết trong cuộc sống… trong khi chờ đợi các liệu pháp chống bệnh khác được áp dụng, thì đấy sẽ là việc dễ thực hiện nhất, không phải tốn chi phí nhiều, và lại có thể làm ngay được.
Hãy suy nghĩ xem, chúng ta sẽ luôn luôn ở vị trí đuổi theo coronavirus nếu để lây lan dịch bệnh khắp quần thể dân cư. Việt Nam và các quốc gia nghèo lại sẽ luôn nằm ở vạch cuối đường đua trong bất cứ liệu pháp trị liệu nào, bao gồm cả tiêm chủng vaccine. Trong khi các quốc gia phương Tây giàu có đang chuẩn bị tiêm liều tăng cường thứ 3, thì chỉ một bộ phận nhỏ tại Việt Nam mới hoàn thành liều thứ 1 mà thôi. Đó là chưa kể nếu để lây lan trên diện rộng, một biến chủng mới kháng thuốc, kháng vaccine sẽ xuất hiện ngay tại Việt Nam. Vậy thì đối với những ai có tầm nhìn và quyết tâm, họ sẽ biết nên làm gì trong giai đoạn này, sau khi đọc báo cáo trên của Vương quốc Anh và những phân tích của Hành tinh Titanic.
Tùy thôi. Ai hiểu được thì hiểu. Nhưng càng nhiều người hiểu và thay đổi, thì dân tộc Việt Nam sẽ có cơ may vượt thoát và sống sót. Sự thay đổi phải được nhận ra bởi các cá nhân, nhưng chỉ có thể tạo được sức bật lớn nếu được thực hiện bởi đám đông.
Dự báo trong những ngày từ 11/6 đến 15/6/2019 sắp tới, sẽ có một đợt nắng nóng ngắn nữa xảy ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng đến khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Đông...
Một nghiên cứu mới được đăng trên Tuần báo Nature Communications cho thấy hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới đều đang theo đuổi các chính sách phát triển kinh tế và...
Phần chia sẻ ý kiến