TIÊM CHỦNG HAY THAY ĐỔI LỐI SỐNG?
Chính phủ Việt Nam hiện đang đẩy mạnh tốc độ tiêm chủng như một cách để thoát khỏi tình trạng bế tắc xã hội. Giới lãnh đạo nghĩ rằng với ý thức và cách sinh hoạt hiện nay của dân...
Lọc theo mục lục
Chính phủ Việt Nam hiện đang đẩy mạnh tốc độ tiêm chủng như một cách để thoát khỏi tình trạng bế tắc xã hội. Giới lãnh đạo nghĩ rằng với ý thức và cách sinh hoạt hiện nay của dân...
Xe chạy bằng điện (Electric Vehicle – gọi tắt là: EV) đã trở thành một trong những biểu tượng đương đại to lớn của một thế giới bàng hoàng thức tỉnh trước các thách thức sâu...
Trong số rất nhiều nguy cơ thảm họa toàn cầu mà con người từng biết đến, nhiều vấn đề đã được hình tượng hoá trên các phương tiện truyền thông hơn cả những nguy cơ khác. Nỗi lo...
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization), nhiệt độ cực cao đã giết chết ít nhất 166.000 người từ năm 1998 đến 2017 trên toàn cầu, trong đó có khoảng 70.000 người...
Theo một báo cáo phân tích rủi ro, các phiến băng và dòng hải lưu có nguy cơ chịu ảnh hưởng của những điểm bùng phát khí hậu (điểm tới hạn), có thể tác động lên nhau và làm suy...
Trong khi nước biển dâng và các cơn bão gần bờ ngày càng trở nên dữ dội, giới hoạch định chính sách của những thành phố ở các vùng thấp trên toàn cầu ngày càng phải trăn trở nhiều...
Có ai lại muốn (hoặc, dám) sống ở hạ lưu của Đập Mullaperiyar 125 tuổi, nằm ẩn mình trong vùng địa chấn của dãy núi Western Ghats ở Ấn Độ? Theo một nghiên cứu năm 2009 của các kỹ...
Theo một đánh giá về rủi ro, trong số 100 thành phố trên toàn cầu dễ bị tổn thương nhất bởi các hiểm họa môi trường, thì có tất cả 99 thành phố đã nằm ở châu Á, và 80% trong số đó...
Trong nhiều năm, không ai biết tại sao có hàng chục “con thuyền ma” bằng gỗ tan tác – cùng với xác của ngư dân Triều Tiên bị chết đói trơ xương – thường xuyên dạt vào...
Ông nói: “Đôi khi chúng tìm thấy một môi trường hẹp khiến biến thể virus trở nên phù hợp hơn so với những dòng trước đó. Những biến thể may mắn này có khả năng lây truyền...
Hiện cả nước Anh đang xem xét cả Pfizer, Astrazenecca, Moderna, Novavax… cho liều tiêm tăng cường thứ 3, đối với người đã tiêm shot 1 hoặc shot 2. Trong tháng 9 này, 32 triệu người Anh sẽ tiếp tục được thí điểm để tiêm chủng thêm.
Đó là vì theo dữ liệu mới từ một số nghiên cứu dịch tễ học của Anh và Mỹ, tổng lượng kháng thể con người có vẻ bắt đầu giảm đi từ sáu tuần sau khi tiêm chủng hoàn toàn và có thể giảm hơn 50% trong vòng 10 tuần kể từ lúc tiêm. Đối với Pfizer, nồng độ kháng thể giảm từ mức trung bình 7506 U/mL sau 21–41 ngày, xuống 3320 U/mL sau 70 ngày trở lên. Đối với Astra Zeneca, mức kháng thể giảm từ mức trung bình 1201 U/mL ở 0–20 ngày xuống 190 U/mL sau 70 ngày trở lên.
Theo một nghiên cứu của Cơ quan Y tế Cộng đồng của nước Anh, được công bố vào ngày 22/5/2021, liều tiêm vaccine thứ nhất của Oxford-AstraZeneca hoặc Pfizer-BioNTech chỉ có thể làm giảm nguy cơ phát triển các triệu chứng bệnh lý của COVID-19 do biến chủng Delta gây ra ở mức 33%, so với 50% đối với biến chủng Alpha. Liều tiêm thứ hai của vaccine AstraZeneca tăng cường khả năng bảo vệ chống lại Delta lên 60% (so với 66% đối với chủng Alpha), trong khi hai liều Pfizer có hiệu quả 88% (so với 93% đối với Alpha).
Hoa Kỳ cũng đang vật lộn với sự gia tăng các case nhiễm COVID-19, được cho là do biến chủng Delta. Điều đó làm cho số lượng những người Mỹ chưa tiêm phòng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết vì nhóm này chiếm phần lớn các ca nhiễm mới, nhập viện và tử vong. Theo một báo cáo nội bộ của CDC, biến thể Delta lây lan nhanh hơn nhiều, có nhiều khả năng lây nhiễm sang người đã được tiêm chủng và có khả năng gây ra bệnh nặng hơn ở người chưa được tiêm chủng so với tất cả các biến chủng đã biết khác. Tài liệu báo cáo này, một bản trình bày slide được chuẩn bị bởi các quan chức trong CDC Hoa Kỳ do báo Washington Post đầu tiên thu thập được, đã cảnh báo rằng biến chủng Delta có khả năng lây nhiễm như bệnh thủy đậu (chickenpox), và lập luận rằng các quan chức chính phủ phải “thừa nhận CUỘC CHIẾN CHỐNG COVID-19 ĐÃ THAY ĐỔI HOÀN TOÀN” (THE WAR HAS CHANGED) vì mức độ nguy hiểm của biến chủng này. Trích dẫn dữ liệu từ một đợt bùng phát ở một quận ở Massachusetts, tài liệu CDC cho rằng việc nhiễm trùng/mang mầm bệnh ở những người đã được tiêm chủng vẫn có thể tạo ra tải lượng virus tương tự như ở những người không được tiêm chủng và bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, giới khoa học thừa nhận rằng khả năng những người được tiêm chủng làm lây lan virus, nếu bị nhiễm bệnh, sẽ ít hơn nhiều so với những người chưa được tiêm chủng. Bản báo cáo của CDC cũng cho biết, biến chủng Delta có khả năng lây truyền cao hơn các loại virus khác trong họ coronavirus như MERS và SARS, cũng như EBOLA và BỆNH ĐẬU MÙA, và thêm rằng mặc dù các vaccine hiện đang có khả năng ngăn ngừa tình trạng nguy kịch nếu nhiễm bệnh, nhưng chúng có thể kém hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh hoặc lây lan mầm bệnh. Báo cáo này đã bị rò rỉ chỉ vài ngày sau khi CDC thay đổi hướng dẫn khuyến cáo rằng, ngay cả những người đã được tiêm chủng cũng nên đeo khẩu trang ở một số cơ sở trong môi trường kín (nhà ở), bất kể họ đã tiêm chủng như thế nào, đặc biệt là ở những khu vực dễ lây truyền virus “đáng kể hoặc cao”. Cuối ngày thứ Sáu 30/7/2021 vừa qua, CDC đã công bố chi tiết hơn về vụ bùng phát ở bang Massachusetts, nơi những người đã được tiêm chủng, rồi thông báo quyết định sửa đổi hướng dẫn đeo khẩu trang trở lại, và điều này đã gây ra phản ứng dữ dội từ những người có tư tưởng bảo thủ trên khắp Hoa Kỳ. Họ đã phát hiện ra rằng vào khoảng kỳ nghỉ ngày mừng lễ độc lập của Mỹ (ngày 4 tháng 7) ở Cape Cod, một đợt bùng phát đã khiến 469 người bị nhiễm bệnh, mặc dù phần lớn trong số này (chiếm 74%) đã được tiêm chủng trước đó. Trong số các mẫu bệnh phẩm được giải trình tự, CDC nhận thấy phần lớn có biến chủng Delta. Dữ liệu được chia sẻ cho thấy rằng những người được tiêm chủng bị nhiễm biến chủng Delta có thể phát thải ra nhiều tải lượng virus giống như những người chưa được tiêm chủng, mặc dù chúng nhấn mạnh rằng vaccine ngăn ngừa được hơn 90% tình trạng bệnh trở nặng.
Tiến sĩ Stephen Griffin, một nhà virus học từ Đại học Leeds, nhấn mạnh rằng việc “nhiễm trùng đột phá” – tức là người đã tiêm phòng đầy đủ nhưng vẫn bị nhiễm bệnh – là chuyện không phổ biến (chỉ chiếm 1-2% theo bản tóm tắt mới nhất của Cơ quan Y tế Cộng đồng Anh, mặc dù với các triệu chứng khác nhau của biến chủng Delta, điều này có thể bị đánh giá thấp). Tuy nhiên, ông vẫn thừa nhận:
“Điều đáng lo ngại là khi những trường hợp nhiễm bệnh như vậy xảy ra, tải lượng/nồng độ virus trong đường thở vẫn xuất hiện giống như khi bị nhiễm bệnh mà chưa tiêm chủng… thì có vẻ như những đợt bùng phát được đề cập là phù hợp với mức độ cao của virus truyền nhiễm đang được phát thải ra trong cộng đồng. Mặc dù vậy, chúng ta phải nhớ rằng, trong tương lai, chúng ta sẽ chứng kiến tỷ lệ [những người được tiêm chủng] bị nhiễm bệnh lớn hơn khi độ bao phủ của thống kê tăng lên trong dân số, nhưng sự khác biệt ở đây chính là chủng Delta chắc chắn có thể làm được chuyện này nhiều hơn, và khiến bệnh nhân bị nhiễm có khả năng mang triệu chứng bệnh lý nhiều hơn so với các chủng khác.”
Như vậy, sẽ không lạ gì khi các quan chức y tế Israel đang lên kế hoạch tiêm nhắc lại vaccine Pfizer-BioNTech chống Covid-19 cho những người trên 60 tuổi vì hiệu quả của loại vaccine này dường như giảm dần khi biến chủng Delta lan rộng khắp thế giới. Kế hoạch này được xác nhận vào ngày 29/7/2021 và bắt đầu tiến hành từ ngày Chúa Nhật 1/8/2021. Bộ Y tế của quốc gia này đã báo cáo vào tuần trước đó rằng vaccine hai liều hiện chỉ có hiệu quả 39% ở Israel, nơi mà biến thể Delta có khả năng lây truyền cao đang trở thành chủng lây nhiễm vượt trội. Các quan chức Israel cho biết, loại thuốc này vẫn hoạt động rất hiệu quả trong việc ngăn tình trạng nguy kịch xảy ra, có hiệu quả 88% đối với tình trạng nhập viện và 91% đối với bệnh nặng. Dữ liệu từ Israel, quốc gia bắt đầu tiêm chủng cho toàn bộ dân số của mình trước nhiều quốc gia khác, đang củng cố lập luận từ các nhà sản xuất dược phẩm rằng cuối cùng, mọi người sẽ cần phải tiêm phòng nhắc lại để bảo vệ khỏi các biến chủng mới xuất hiện mà thôi.
Tiến sĩ Isaac Bogoch, giáo sư về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Toronto (Canada), cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây:
“Chúng ta phải lưu ý rằng, theo thời gian, hiệu quả của những loại vaccine này có thể bị suy giảm.”
Ông nhấn mạnh rằng các mũi tiêm vẫn có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa tình trạng bệnh nặng, giúp hệ thống y tế không bị quá tải khi bước vào những tháng mùa Đông lạnh hơn. Ông khẳng định:
“Chúng ta vẫn đang ở trong kỷ nguyên Covid và bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị và chúng tôi phải nhanh chóng nhận ra rằng mọi người có thể sẽ phải cần tiêm bổ sung để nâng cấp hệ miễn dịch vào một thời điểm nào đó. Các con số thống kê chặt chẽ đang được tiến hành ở các quốc gia như Israel, Vương quốc Anh và nhiều khu vực khác trên thế giới, sẽ rất hữu ích trong việc thúc đẩy chính sách này, bất cứ khi nào chúng ta cần một liều tiêm bổ sung.”
Giám đốc CDC Hoa Kỳ, Tiến sĩ Rochelle Walensky, cho biết trong khi biến chủng Delta đang tấn công những người chưa được tiêm chủng một cách kinh khủng nhất, thì vẫn có một số người đã tiêm vaccine có thể mang tải lượng virus cao hơn những gì đã hiểu trước đây và có khả năng truyền nó cho những người khác. Walensky bổ sung dữ liệu mới cho thấy biến chủng này hoạt động “rất khác biệt so với các chủng virus trong quá khứ”, cho thấy rằng một số người được tiêm phòng nhưng bị nhiễm biến chủng Delta “có thể lây nhiễm và làm lây lan virus cho những người xung quanh”. Ông nói:
“Đại dịch này tiếp tục đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của tất cả những người Mỹ. Ngày nay, chúng tôi lập ngành khoa học mới liên quan đến biến chủng Delta, đòi hỏi chúng ta phải cập nhật hướng dẫn về những gì bạn có thể phải làm dù đã được tiêm chủng đầy đủ.”
Trong khi đó, Indonesia chìm vào thảm họa khi biến chủng Delta lan rộng trên toàn đất nước này. Vào thứ Tư, ngày 14/7/2021, tổng số case nhiễm bệnh trên toàn quốc đã lên tới hơn 54.000 case, khiến Indonesia trở thành tâm chấn mới của đại dịch ở Châu Á. Theo trang web Our World In Data (OWID), biến thể Delta đã được phát hiện trong 94% các xét nghiệm được thực hiện ở Indonesia trong hai tuần qua trong bối cảnh quốc gia này chỉ mới tiêm chủng đầy đủ được 6% dân số. Đã có những lo ngại thực sự rằng hệ thống chăm sóc sức khỏe của Indonesia đang trên bờ vực sụp đổ nghiêm trọng, khi số giường bệnh và nguồn cung oxygen thiếu hụt ở nhiều bệnh viện. Cũng có lo ngại cho rằng nhiều nhân viên y tế của Indonesia đang căng thẳng, mệt mỏi, bị suy giảm miễn dịch, không đủ sức khỏe để chống lại COVID-19 chủng mới, mặc dù đã được tiêm phòng. Từ ban đầu, Indonesia chủ yếu dựa vào vaccine Sinovac do Trung Quốc sản xuất để bảo vệ dân số chống lại coronavirus, bao gồm cả các nhân viên y tế của nước này. Trong những thử nghiệm lâm sàng, vaccine từ cơ chế virus bất hoạt này của Sinovac và Sinopharm đã được chứng minh là có hiệu quả từ 50 đến 79% trong việc ngăn ngừa nhiễm COVID có triệu chứng và hơn 95% hiệu quả trong việc ngăn ngừa tình trạng nhập viện. Mặc dù không có dữ liệu công khai về mức độ hiệu quả của vaccine Sinovac chống lại biến chủng Delta, nhưng các nghiên cứu sơ bộ đã cho thấy tính hiệu quả của nó có thể thấp tới 20%.
Và khi các nhân viên y tế đã được tiêm phòng đầy đủ Sinovac nhưng không chống lại được virus, Bộ trưởng Bộ Y tế Indonesia – ông Budi Gunadi Sadikin – cho biết trong một cuộc họp báo vào ngày 9/7/2021, rằng tất cả các nhân viên y tế sẽ được tiêm một mũi “tăng cường” vaccine Moderna do Mỹ sản xuất, để bảo vệ họ chống lại làn sóng chết người mới. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng vaccine Moderna có hiệu quả hơn 94% trong việc ngăn ngừa COVID-19 ở những người đã tiêm cả hai liều. Một nghiên cứu của Canada đang chờ đánh giá, bình duyệt đồng cấp đã phát hiện ra rằng một liều Moderna duy nhất có hiệu quả 72% trong việc ngăn ngừa lây nhiễm bệnh có triệu chứng do biến chủng Delta gây ra sau hai tuần kể từ lúc tiêm chủng. Điều này có nghĩa là mức độ bảo vệ tương đối được cải thiện đối với nhân viên y tế của Indonesia ngay cả khi chỉ sau một mũi tiêm nhắc lại Moderna.
Phải chăng vaccine Sinovac và Sinopharm của Trung Quốc không thể chống lại biến chủng mới Delta? Ở Mông Cổ, các bệnh viện quá tải. Tại quần đảo Seychelles nhỏ bé, hơn 100 case nhiễm Covid-19 mới được báo cáo mỗi ngày. Và ở Chile, lệnh cấm vận trên toàn quốc đã được dỡ bỏ trong tuần này – nhưng quốc gia này vẫn đang báo cáo hàng nghìn trường hợp nhiễm mới hàng ngày. Điểm chung của các quốc gia này là họ đã tiêm chủng đầy đủ cho hơn 50% dân số của họ, phần lớn bằng vaccine chống coronavirus do Trung Quốc sản xuất, là Sinovac hoặc Sinopharm. Và điều đó đã đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả của các loại vaccine này.
Nếu vaccine Trung Quốc không hiệu quả, đó là một vấn đề lớn – và không chỉ từ khía cạnh sức khỏe cộng đồng, mà còn về mặt ảnh hưởng chính trị. Bắc Kinh đã đánh giá cao danh tiếng của mình trong việc cung cấp vaccine cho các quốc gia khác. Cách đây 3-4 tháng, trong lúc các quốc gia phương Tây tích trữ nguồn cung ứng vaccine cho dân số của họ, Trung Quốc lại có thể gửi tài trợ hoặc tặng vaccine ra nước ngoài. Vào tháng 6/2021, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo nước này đã chuyển giao hơn 350 triệu liều vaccine Covid-19 cho hơn 80 quốc gia. Chính chuyện đó đã tương phản với những nỗ lực không phù hợp của phương Tây ngay vào thời điểm căng thẳng giữa Trung Quốc và nhiều nền dân chủ lớn đang tăng cao.
Các câu hỏi về tính hiệu quả của vaccine Sinopharm và Sinovac của Trung Quốc hiện gây nguy hiểm cho chiến thắng quyền lực mềm của Bắc Kinh trên toàn cầu, mặc dù người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Wang Wenbin đã bác bỏ những lời chỉ trích đó, gọi chúng là “bôi nhọ … có động cơ thiên vị”.
Giới chuyên gia nói rằng mặc dù những loại vaccine Trung Quốc này có thể không hiệu quả bằng một số loại khác, nhưng chúng không phải là một sự thất bại. Không có vaccine nào có thể bảo vệ 100% chống lại Covid-19, vì luôn xuất hiện các trường hợp “nhiễm đột phá” trong một cộng đồng dân cư đông đúc đã được tiêm chủng. Theo họ, thước đo quan trọng để đạt được sự thành công chống dịch lúc này chỉ là ngăn ngừa trường hợp tử vong và nhập viện, chứ không phải nhắm đến con số 0 ca nhiễm Covid-19. Vậy tại sao lại có những trường hợp tử vong dù đã tiêm chủng các loại vaccine của Trung Quốc?
Trung Quốc có hai loại vaccine được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho phép sử dụng khẩn cấp (emergency use) là Sinopharm và Sinovac. Cả hai đều sử dụng virus bất hoạt (vero cell) để tạo ra phản ứng miễn dịch ở bệnh nhân, một phương pháp chế tạo vaccine truyền thống đã được thử nghiệm và kiểm chứng từ lâu. Ngược lại, Pfizer và Moderna sử dụng một công nghệ chế tạo vaccine mới hơn, gọi là mRNA, trong đó dạy các tế bào của cơ thể cách tạo ra một đoạn protein gai (spike protein – loại protein mở đường cho virus xâm nhập tế bào người) của coronavirus để kích hoạt phản ứng miễn dịch. Cho đến nay, các thử nghiệm cho thấy Sinopharm và Sinovac có hiệu quả chống lại Covid-19 thấp hơn so với các đối tác mRNA của họ. Dựa trên dữ liệu được gửi cho WHO, trong các thử nghiệm ở Brazil, Sinovac có hiệu quả khoảng 50% đối với case nhiễm Covid-19 có triệu chứng và 100% hiệu quả chống lại tình trạng bệnh trở nặng (nguy kịch). Hiệu quả của Sinopharm đối với cả case bệnh có triệu chứng và nhập viện ước tính là 79%. Các chuyên gia cho biết tỷ lệ bùng phát dịch bệnh ở những nơi sử dụng vaccine Trung Quốc cho đến nay, nói chung là khá phù hợp với những gì chúng ta mong đợi từ những tỷ lệ hiệu quả này.
Chile đang báo cáo hàng nghìn ca nhiễm Covid-19 mới mỗi ngày. Đây là trường hợp quốc gia khiến giới khoa học phải vò đầu bứt tai. Ban đầu, họ được ca ngợi vì đã nhanh chóng tiêm chủng cho 62% dân số bằng ít nhất một liều và gần 50% với đầy đủ hai liều, nhưng Chile đã rơi vào tình trạng phải bắt đầu giản cách xã hội lại vào giữa tháng 6/2021 để ngăn chặn một đợt bùng phát 70.000 case nhiễm mới mỗi ngày – một con số ngang bằng với đỉnh của làn sóng đầu tiên được chứng kiến vào năm ngoái (2020). Khoảng 87% số vaccine được cung cấp tại Chile là Sinovac, trong một thỏa thuận bao gồm mua khoảng 60 triệu liều trong vòng 3 năm – khiến đất nước này trở thành một trong những khách hàng đặt mua vaccine Trung Quốc lớn nhất ở Châu Mỹ Latin, cùng với Brazil và Mexico. Cho đến hiện nay, gần 80% dân số Chile được tiêm vaccine Sinovac. Nhưng theo Bộ Y tế Quốc gia này, 73% trường hợp vào khoa Hồi sức tích cực từ ngày 17 đến 23/6 đều chưa được tiêm chủng đầy đủ (mới 1 liều, chưa đủ hai liều).
Châu Mỹ Latin và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã mua khoảng 80% trong số 759 triệu liều vaccine mà Trung Quốc bán được cho đến nay. Hầu hết các liều đó, khoảng 511 triệu, đã được phân phối bởi Sinovac, trong đó vaccine của Sinopharm chiếm phần lớn doanh số còn lại cho đến nay.
Một tình huống tương tự cũng xảy ra ở Seychelles, nơi giới chức trách cho biết hầu hết các trường hợp nguy kịch và nghiêm trọng của Covid-19 đều xảy ra ở những người chưa được tiêm chủng đầy đủ. Quốc gia này đang áp dụng tiêm chủng Sinopharm cho người lớn dưới 60 tuổi, trong khi những người trên 60 tuổi sử dụng Covishield, vaccine AstraZeneca được sản xuất tại Ấn Độ, có tỷ lệ hiệu quả tương tự 76% chống lại tình trạng bệnh Covid-19 có triệu chứng và 100% đối với bệnh nguy kịch.
Bộ Y tế Seychelles cho biết trong một bài đăng trên Facebook vào tháng trước rằng trong số 63 người chết vì Covid-19 ở nước này vào thời điểm đó, có 3 người đã được tiêm hai liều. Cả ba đều ở độ tuổi từ 51 đến 80.
Theo Bộ trưởng Y tế của Seychelles, trong số những người bị nhiễm mới, 1/3 được báo cáo đã được tiêm chủng cả hai liều – nhưng không ai trong số họ tử vong. 70% dân số quốc gia này đã được tiêm chủng, chủ yếu là bằng vaccine Sinopharm.
Theo Enkhsaihan Lkhagvasuren, người đứng đầu Bộ Y tế Mông Cổ về việc thực hiện chính sách y tế cộng đồng, quốc gia này đã tiêm chủng đầy đủ cho 53% dân số, với 80% trong số này được tiêm Sinopharm. Theo Lkhagvasuren, 1/5 trường hợp nhiễm mới Covid-19 ở Mông Cổ đã được tiêm chủng đầy đủ, nhưng 96% trường hợp tử vong do Covid-19 là ở những người chưa được tiêm chủng hoặc chỉ mới tiêm một liều. Để đạt được miễn dịch toàn dân, Lkhagvasuren cho biết hơn 80% dân số Mông Cổ cần phải được tiêm chủng. Đất nước 3 triệu dân này vẫn có 1,6 triệu người dễ bị tổn thương bởi Covid-19.
Odgerel Chuluunbat, một chủ doanh nghiệp được tiêm phòng đầy đủ ở thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ, người đã xét nghiệm dương tính với Covid-19 hai tuần trước và đã hồi phục tại nhà, cho biết bà tin rằng tình trạng bệnh của mình có thể tồi tệ hơn nhiều nếu không có vaccine Sinopharm. Với nguồn cung vaccine toàn cầu hiện vẫn còn thiếu hụt, nhiều quốc gia đang phát triển có rất ít lựa chọn khác. Mông Cổ đã được phân bổ hơn 112.000 liều AstraZeneca và 126.000 liều Pfizer thông qua chương trình COVAX của Liên Hiệp Quốc, nhưng các vấn đề liên quan đến sản xuất và dịch bệnh bùng phát ở Ấn Độ đã khiến việc giao hàng bị trì hoãn.
Vậy tại sao có người tiêm vaccine của Trung Quốc vẫn bị chết? Một số người đang tiêm vaccine Sinovac hoặc Sinopharm vẫn tử vong vì nhiễm Covid – mặc dù những trường hợp nhiễm đột phá này có thể xảy ra với bất kỳ loại vaccine nào khác, như Astrazenecca hoặc Pfizer. Theo Tiến sĩ Adib Khumaidi – trưởng nhóm giảm thiểu rủi ro của Hiệp hội Y khoa Indonesia, tại quốc gia này, nơi mà Hội Chữ thập đỏ cảnh báo trong thời gian gần đây đang “ở bên bờ vực của thảm họa”, ít nhất 88 bác sĩ đã chết vì Covid-19 trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến ngày 26 tháng 6. Ít nhất 20 người đã được tiêm vaccine Sinovac đầy đủ. 35 người khác chưa được tiêm phòng và 33 trường hợp tử vong nữa vẫn đang được điều tra. Ước tính có khoảng 1.600 bác sĩ ở Indonesia đã bị nhiễm Covid-19 chỉ trong tháng 5 và tháng 6, mặc dù không rõ bao nhiêu người trong số đó đã được chủng ngừa. Ts. Adib cho biết hầu hết các nhân viên y tế chết vì họ ở trong một hoàn cảnh đặc biệt: quá tải với bệnh nhân, nghĩa là họ phải làm việc nhiều giờ mà ít được nghỉ ngơi. Ông nói:
“Dựa trên dữ liệu điều tra của chúng tôi, cái chết của các nhân viên y tế không liên quan gì đến vaccine Sinovac. Điều quan trọng nhất là có tiêm chủng vaccine Covid và mọi người nên tiếp tục tuân thủ các quy trình chăm sóc sức khỏe.”
Tiến sĩ Hermawan Saputra, một nhà dịch tễ học và là thành viên của Hiệp hội Chuyên gia Y tế Công cộng Indonesia, cho biết các chủng mới của Covid-19 có tính độc lực cao hơn có thể làm giảm hiệu quả của vaccine.
Vấn đề người được tiêm chủng chết vì Covid-19 không chỉ xảy ra với vaccine Trung Quốc. Một báo cáo của Cơ quan Sức khỏe Cộng đồng Anh (Public Health England – PHE) vào tháng 6/2021 cho thấy trong số 117 người chết trong vòng 28 ngày sau khi xét nghiệm dương tính với biến chủng Delta ở Anh, 50 người đã được tiêm chủng hai liều. Nhưng những trường hợp tử vong như vậy rất hiếm – tổng cộng có 92.029 trường hợp nhiễm chủng Delta, trong đó 58% là chưa được tiêm chủng. Vương quốc Anh đang sử dụng Moderna và Pfizer / BioNTech, cả hai đều là vaccine công nghệ mRNA, cũng như Oxford / AstraZeneca, sử dụng một công nghệ vaccine khác.
Trong một bài báo trên tờ Guardian, nhà thống kê học David Spiegelhalter và Anthony Masters cho biết luôn xảy ra một số trường hợp tử vong cho dù từ vaccine có hiệu quả tốt, nhưng không hoàn hảo 100%. Jin Dong-yan, một giáo sư về virus học phân tử tại Đại học Hong Kong, cảnh báo có thể đã xảy ra những vấn đề sức khỏe căn bản nơi những trường hợp nghiêm trọng này. Ông nói, một số người được tiêm vaccine và phải nhập viện với Covid-19 có thể đã bị suy giảm miễn dịch, có nghĩa là cơ thể của họ không thể tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh mẽ được nữa.
Có một thông tin từ Bloomberg cho biết vaccine Sinopharm chỉ cung cấp khả năng bảo vệ kém chống COVID-19 ở người cao tuổi, đặt ra câu hỏi cho hàng chục quốc gia đã tiêm vaccine của công ty Trung Quốc cho những nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất của họ. Một cuộc khảo sát mẫu máu được lấy từ 450 người ở Hungary ít nhất hai tuần sau liều Sinopharm thứ hai của họ cho thấy 90% dưới 50 tuổi đã phát triển các kháng thể bảo vệ. Nhưng tỷ lệ này giảm dần theo độ tuổi, và 50% trong số những người trên 80 tuổi không hề có kháng thể. Nghiên cứu trên của hai nhà y sinh Hungary đã được đăng trực tuyến từ ngày 20/7/2021, nhưng chưa được các nhà khoa học khác xem xét. Ba chuyên gia bên ngoài cho biết họ không gặp vấn đề gì với phương pháp nghiên cứu loại vaccine do Viện sản phẩm sinh học Sinopharm Bắc Kinh phát triển. Ở Hungary, lo ngại về các mũi tiêm khiến nhiều người tìm đến các xét nghiệm kháng thể tư nhân. Nhưng cuối cùng thì, thủ đô Budapest đã phải cung cấp dịch vụ xét nghiệm miễn phí dành cho những người cao tuổi như một phần nỗ lực nhằm gây áp lực lên chính phủ để tiến hành cuộc khảo sát rộng hơn của riêng quốc gia này và cung cấp các mũi tiêm tăng cường cho những người cần chúng.
Còn Gs. Jin Dong-yan, người không liên quan đến nghiên cứu này, thì chia sẻ:
“Điều này rất đáng lo ngại, khi những người có nguy cơ cao, lại chỉ có phản ứng kháng thể kém [đối với vaccine Sinopharm]”.
Mức độ kháng thể được tạo ra không phải là thước đo trực tiếp để đánh giá khả năng bảo vệ của một người khỏi bệnh COVID-19, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy chúng là một yếu tố chỉ báo tốt. Một chuyên gia cảnh báo rằng việc lựa chọn bộ dụng cụ thử nghiệm có thể hạn chế độ chính xác của các phép đo này. Tuy nhiên, Wang Chenguang, một cựu giáo sư tại Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh (Peking Union Medical College) và cũng là một chuyên gia miễn dịch học, cho biết những phát hiện của nghiên cứu vẫn có giá trị và là nỗ lực khoa học công khai đầu tiên để phân tích tác dụng của vaccine Sinopharm đối với người cao tuổi. Ủy ban Y tế Quốc gia Trung Quốc từ chối bình luận về nghiên cứu, nói rằng họ sẽ chỉ phản hồi các nghiên cứu của chính phủ hoặc các tổ chức nghiên cứu lớn.
Điều đáng lưu ý là có một ý kiến từ nhà dịch tễ học của Trinidad & Tobago – Tiến sĩ Avery Hinds, khi ông đã trả lời các câu hỏi tại một cuộc họp báo có liên quan đến nghiên cứu ở Hungary về việc mức kháng thể trong 450 người tham gia nghiên cứu không xuất hiện hoặc bị suy giảm theo tuổi tác, như sau:
Nhìn chung, những gì bạn thấy là những người cao tuổi đôi khi có phản ứng miễn dịch kém mạnh mẽ hơn đối với bất kỳ hình thức tiêm chủng nào, cho dù đó là Sinopharm hay các vaccine khác, giống như hệ quả của việc chức năng hệ thống miễn dịch bị suy giảm một chút khi bạn già đi.
Điều này không đồng nghĩa với việc vaccine kém hiệu quả hơn, mà chỉ là một quan sát cho thấy rằng những người cao tuổi có thể có ít phản ứng miễn dịch có thể đo lường hoặc định lượng được về lượng kháng thể, v.v. nhưng mức độ bảo vệ đó do vaccine mang lại vẫn có hiệu lực ở một mức độ nào đó, và do đó, khuyến cáo về việc tiêm chủng ở người cao tuổi để làm giảm nguy cơ trên thực tế vẫn còn nguyên giá trị.
Trên bình diện toàn cầu, ngoài bất cứ nghiên cứu đơn lẻ nào đang báo cáo về mức độ đáp ứng miễn dịch, những gì chúng ta đang chứng kiến chính là tỷ lệ tử vong trong dân số có giảm đi, đặc biệt là ở những nhóm dân số dễ bị tổn thương nơi các quốc gia đã được tiêm chủng rộng rãi.
Vậy nên điều chúng ta đang nhận ra trên toàn cầu là bằng chứng cho thấy việc tiêm chủng, bao gồm cả vaccine Sinopharm, đã và đang làm việc để giảm thiểu kết quả mà chúng ta muốn tránh nhất – đó là nguy cơ tử vong.
Hiện Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Bahrain đều thông báo từ tháng 5/2021 rằng họ cũng sẽ tiếp tục tiêm liều Sinopharm thứ ba trong bối cảnh lo ngại về phản ứng kháng thể không đủ. Bahrain khuyến cáo những người trên 50 tuổi và một số người dễ bị tổn thương khác nên tiêm vaccine Pfizer-BioNTech để tăng cường khả năng miễn dịch bất kể họ có được tiêm Sinopharm từ ban đầu hay không.
Gs. Jin cho biết hiệu quả của vaccine Trung Quốc có thể không đủ cao để ngăn chặn virus lây lan trong cộng đồng, từ đó đảm bảo được khả năng miễn dịch cộng đồng. Và điều đó cũng khiến nguy cơ xuất hiện các biến chủng mới kháng vaccine có thể xuất hiện trong tương lai. Ông nói:
“Có thể sự kết thúc của đại dịch sẽ bị trì hoãn thêm, hoặc chúng ta phải đối phó nó giống như nhưng căn bệnh tương tự như cúm trong một thời gian dài hơn. Vaccine Sinovac, Sinopharm rất tốt, nhưng chúng không đủ tốt. Chúng ta muốn có vaccine giúp chấm dứt đại dịch hoàn toàn và nếu đúng như vậy, Pfizer và Moderna đang làm tốt hơn nhiều. “
Ông cho rằng các nhà sản xuất vaccine Sinopharm và Sinovac có trách nhiệm cải tiến, hoặc có thể chỉ là vấn đề tăng thêm liều lượng cho một shot (liều tiêm) hoặc thêm liều thứ ba (shot 3). Cũng có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc có thể không dựa hoàn toàn vào vaccine tự sản xuất trong tương lai. Trong một hồ sơ đăng ký trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hong Kong, công ty Dược phẩm Fosun Thượng Hải của Trung Quốc cho biết rằng họ sẽ hợp tác với BioNTech để sản xuất lên đến 1 tỷ liều vaccine mRNA hàng năm. Ngoài ra, vaccine Pfizer và Moderna có thể được tung ra nhiều quốc gia hơn trong năm tới sau khi năng lực sản xuất của họ được cải thiện. Nhưng bây giờ, thì vẫn chưa đủ để bao quát hết mọi nhu cầu trên toàn thế giới. Scott Rosenstein, giám đốc chương trình y tế toàn cầu tại Eurasia Group, cho biết dù thế nào đi nữa, thì tiêm vaccine Trung Quốc vẫn tốt hơn là không tiêm gì cả. Và ông lo ngại rằng những lời chỉ trích về vaccine của Trung Quốc có thể làm cho mọi người chờ đợi cho đến khi có được các loại vaccine hiệu quả hơn. Nhưng bức tranh lớn hơn về tiêm chủng chống COVID-19, Rosenstein nói, không phải là chính trị – mà là về vấn đề sức khỏe.
Một điểm đáng quan tâm trong phân tích thống kê về tính hiệu quả của vaccine Trung Quốc cho thấy, sau khi phê duyệt, bất kỳ sự theo dõi quy mô lớn nào về hiệu quả của các đợt triển khai vaccine Sinovac và Sinopharm từ WHO hoặc các cơ quan chức năng quốc gia được tiêm chủng dường như đều bị bỏ sót. Ngược lại, việc triển khai các loại vaccine khác đã được nhiều cơ quan quản lý của Mỹ, Anh, Châu Âu, cũng như giới nghiên cứu độc lập theo dõi và đánh giá cẩn thận. Chẳng hạn, việc Israel triển khai tiêm chủng vaccine Pfizer trên toàn bộ dân số đã được báo cáo cho nhiều quốc gia biết chi tiết về dữ liệu dịch tễ, số lần nhập viện và có so sánh đối chiếu trong số hàng trăm nghìn người đã được tiêm chủng với những nhóm tương tự chưa được tiêm. Việc theo dõi cẩn thận các kết quả, bao gồm cả việc công bố kết quả được đánh giá ngang hàng, đã giúp tăng cường niềm tin vào vaccine công nghệ mRNA. Nhưng với các quốc gia đang phát triển và nghèo, khả năng theo dõi được như vậy dường như yếu kém hơn nhiều – hoặc không làm được.
Ngoại lệ là một báo cáo của chính phủ Uruguay hồi giữa tháng 6/2021 về một nghiên cứu trên khoảng 800.000 người đã được tiêm hai mũi vaccine Sinovac – tức là chiếm khoảng 35% dân số. Nghiên cứu này, cho đến nay vẫn chưa được công bố trên một tạp chí được bình duyệt, kết luận rằng số case tử vong ở những người được chủng ngừa bằng vaccine Sinovac đã giảm 95%, nhập viện chăm sóc đặc biệt (ICU) giảm 92% và bị nhiễm bệnh là 61%.
Cùng thời gian đó, Uruguay đã chứng kiến một trong những mức tăng số case nhiễm mới COVID lớn nhất trên thế giới – với hơn 766 trường hợp/triệu người vào ngày 17/6/2021, so với 50 trường hợp/triệu ở Ấn Độ và chỉ 36 trường hợp ở Hoa Kỳ trong cùng thời điểm.
Cập nhật dịch tễ học hàng tuần của WHO từ ngày 8/6/2021 thừa nhận bằng chứng về hiệu quả của vaccine chống lại các biến chủng vẫn còn ở mức “hạn chế” đến “rất hạn chế”, và thêm rằng vaccine vẫn “có khả năng” cung cấp một số mức độ bảo vệ chống lại dịch bệnh COVID-19. Những biến chủng đáng quan tâm đó bao gồm Alpha, được phát hiện lần đầu tiên ở Anh, Beta (Nam Phi), Gamma (Brazil) và Delta (Ấn Độ). Tất cả những điều đó hiện đã được xác định trong bối cảnh của Châu Mỹ Latin, đặc biệt là ở Chile và Brazil. Đặc biệt, Bản cập nhật Dịch tễ học từ đầu tháng 6 trích dẫn một số nghiên cứu cho thấy rằng các biến chủng Beta và Gamma dường như dẫn đến việc khả năng trung hòa của vaccine Sinopharm và Sinovac giảm xuống ở mức “tối thiểu đến khiêm tốn”; mặc dù đối với biến chủng Alpha, khả năng này vẫn “không bị ảnh hưởng / chỉ mất ở mức tối thiểu”.
Trong khi đó, giới chuyên gia đã cảnh báo rằng các nghiên cứu về hiệu suất của vaccine chống lại các biến chủng mới chủ yếu chỉ giới hạn ở các quần thể nhỏ hoặc phân tích trong phòng thí nghiệm về cái gọi là “kháng thể trung hòa” được tìm thấy trong mẫu máu – so với những cuộc điều tra dịch tễ học ngoài đời thực. WHO cũng nhấn mạnh rằng tất cả các loại vaccine, bao gồm cả vaccine mRNA hiệu quả nhất, vẫn có thể bị hạn chế tính hiệu quả khi đối mặt với các biến chủng mới. Họ trích dẫn một ví dụ, như nghiên cứu từ Qatar, cho thấy vaccine Pfizer kém hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn bệnh lý có triệu chứng trước các biến chủng Alpha và Beta – mặc dù không nhất thiết người bệnh phải nhập viện và tử vong. Ngược lại, các nghiên cứu từ Israel, nơi có khoảng 53% dân số được tiêm vaccine Pfizer công nghệ mRNA, đã xác nhận khả năng bảo vệ cao mà vaccine mRNA có thể mang lại đối với biến chủng Alpha.
Nếu hai loại vaccine của Trung Quốc hoạt động kém hiệu quả trong bối cảnh thực tế, nó có thể giáng một đòn lớn vào chương trình COVAX đang khát vaccine. Liên minh Vaccine và WHO có kế hoạch ký kết các thỏa thuận với Sinopharm và Sinovac về việc mua một lượng lớn vaccine dành cho các quốc gia nghèo và đang phát triển, sau quyết định gần đây của WHO về việc đưa cả hai loại vaccine này vào Danh sách Sử dụng Khẩn cấp (Emergency Use). Nếu có nhiều vấn đề hơn nổi lên đối với loại vaccine này, chuyện đó cũng sẽ đặc biệt là điều đáng tiếc cho Châu Mỹ Latin, nơi hiện đang chứng kiến tốc độ lây lan COVID cao hơn hầu hết các khu vực khác trên thế giới – bao gồm cả Ấn Độ.
Tin mới nhất vào ngày 30/7/2021 cho biết Cơ quan Khoa học Y tế Singapore (HSA) đã chấp thuận 11 đơn đăng ký của các bệnh viện và phòng khám tư nhân, để đưa vaccine Sinopharm qua đường tiếp cận đặc biệt, và có thể được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Điều đó nghĩa là, theo phương thức tiếp cận đặc biệt chống đại dịch (PSAR), các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tư nhân có thể đăng ký để mang thêm nhiều loại vaccine COVID-19 chưa được HSA cho phép vào Singapore để tiêm chủng cho người dân quốc gia này. Cho đến nay, chỉ có vaccine Pfizer-BioNTech và Moderna COVID-19 được cấp phép theo tiêu chuẩn PSAR.
Trong khi đó, nhiều quốc gia Đông Nam Á và Nam Á khác cũng đang đối mặt với làn sóng lây nhiễm mới và tăng đột biến do biến chủng Delta. Thái Lan chứng kiến sự gia tăng các trường hợp nhiễm COVID-19, trong đó, theo Giám đốc Bộ Khoa học Y tế nước này, Tiến sĩ Supakit Sirilak, chủng Delta đã vượt qua Alpha để trở thành biến chủng thống trị chiếm 63% số ca nhiễm mới. Chính phủ Thái Lan hiện đã thông báo lockdown ở Bangkok và các khu vực có nguy cơ cao khác. Đất nước này, vốn phụ thuộc nhiều vào ngành du lịch, chỉ mới mở cửa cho du khách gần đây nhưng hiện đang phải áp dụng lại các biện pháp hạn chế và giãn cách xã hội để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
Cambodia sẽ bắt đầu tiêm vaccine tăng cường chống Covid-19, trộn giữa AstraZeneca và các vaccine COVID-19 của Trung Quốc trong nỗ lực chống lại sự lây lan của coronavirus ở quốc gia này. Hôm Chúa Nhật 1/8/2021, Thủ tướng Hun Sen, người phát động chiến dịch tiêm chủng cho trẻ từ 12-17 tuổi trước đó, cho biết liều tiêm thứ ba sẽ được ưu tiên cấp cho từ 500.000 đến một triệu công nhân tuyến đầu. Ông nói:
“Những người đã được chủng ngừa bằng Sinopharm và Sinovac nên được tiêm AstraZeneca như liều tăng cường thứ ba. Đối với những người Cambodia đã được chủng ngừa bằng AstraZeneca, Sinovac cũng nên được tiêm thêm như liều tăng cường thứ ba.”
Ở những nơi khác, Pakistan cũng đang chứng kiến sự gia tăng số case nhiễm mới sau khi giai đoạn giảm bớt dịch bệnh vào mùa xuân 2021, với việc thủ phủ Karachi ghi nhận số trường hợp nhiễm chủng Delta cao nhất. Hiện chỉ có 2% dân số Pakistan được tiêm chủng đầy đủ. COVAX, chương trình chia sẻ vaccine của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đang có kế hoạch gửi thêm ba triệu liều vaccine Moderna đến Pakistan để giúp chống lại khuynh hướng gia tăng mới này.
Nhưng tinh thần của giới nhân viên y tế ở một số khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất được báo cáo lại là rất thấp, với một số người ở Malaysia cho biết họ đang phải làm việc theo ca 36 giờ để trang trải cho những đồng nghiệp bị ốm hoặc trong tình trạng tự cách li. Các bác sĩ kiệt sức đã quá chán ngán với việc không được trả lương và có điều kiện làm việc tương xứng ở đất nước này, đến nỗi họ đã phải rời khỏi các bệnh viện trên khắp đất nước, bao gồm cả ở thủ đô Kuala Lumpur.
1. Những dấu hiệu về suy yếu miễn dịch, chuẩn bị tiêm thêm liều tăng cường thứ 3, dù là vaccine của Trung Quốc hay của Mỹ, Đức và Anh, cho thấy các biến chủng mới của COVID-19 ngày càng có khả năng tạo ra nhiều làn sóng lây nhiễm mới. Loài người hiện đang đuổi theo coronavirus, chứ không phải ngược lại.
2. Chúng ta có thể thấy được người ta đang tiến hành tiêm liều thứ 3 trên vài quốc gia, từ Châu Âu cho đến Trung Đông, từ Châu Mỹ Latin đến Đông Nam Á. Việc tiêm tăng cường này có thể dẫn đến khả năng thiếu hụt vaccines dành cho các quốc gia nghèo và đang phát triển thuộc thế giới thứ 3.
3. Việc tiêm chủng vaccines chống lại COVID-19 chỉ có thể bảo vệ con người khỏi tình trạng nhập viện và bệnh nặng. Nó không giúp tạo ra miễn dịch cộng đồng, hoặc chỉ tạo ra một hình thức “miễn dịch cộng đồng giả”, khi số lượng quần thể tiêm chủng đạt 90%-100%.
4. Điều đáng lo ngại hơn, chính là người đã tiêm vaccine vẫn có nguy cơ nhiễm bệnh (dạng nhẹ), có tải lượng virus trong hầu họng cao, và có khả năng lây truyền bệnh cho người khác (bao gồm cả người chưa tiêm chủng).
5. Các quốc gia đang phát triển, như Việt Nam chẳng hạn, không nên đặt quá nhiều kỳ vọng vào vaccine. Điều đó có thể khiến người dân chủ quan, xem thường khi đã được tiêm chủng. Việt Nam chỉ mới tiêm được một liều duy nhất, trong khi các quốc gia phát triển và giàu mạnh đã tính đến việc tiêm liều thứ 3 rồi. Họ cũng đang chuẩn bị thêm các phương thức và giải pháp chữa trị – vaccine mới để đối đầu với dịch bệnh. Việt Nam không nên bị sức ép kinh tế để rồi lại lún sâu vào dịch bệnh trong khi chưa đủ các điều kiện chống dịch cần thiết – cả về phương diện tiêm chủng và trị liệu.
6. Điều quan trọng là người dân cần được truyền thông, giáo dục và hiểu biết rõ ràng về các loại vaccine, hiệu quả của chúng, giới hạn của chúng, các tác dụng phụ, chống chỉ định bệnh lý nào, thời gian tạo kháng thể sau tiêm liều 1/2/3, tiêm rồi có phải áp dụng 5K hay không, tiêm rồi có mang mầm bệnh và vẫn có khả năng làm lây lan dịch bệnh hay không. Cho dù có tiêm chủng, vaccine của Mỹ hay Trung Quốc, chúng tôi khuyến cáo người dân Việt Nam cần tiếp tục giãn cách và hạn chế tập trung đông người. Xã hội Việt Nam cần tập với việc thay đổi nếp sinh hoạt trong kỷ nguyên COVID này. Mọi chuyện đã không còn bình thường như trước nữa. Việt Nam cần tính đến việc sống chung với dịch bệnh, bằng ý thức văn hóa tự bảo vệ mình và mọi người xung quanh.
7. Trong tình hình rối loạn về vaccine như hiện nay, khi tiêm chủng COVID-19, người dân – các bạn phải biết rõ liều số 1 (shot 1) dùng loại vaccine gì, để còn có thể tiêm liều số 2 (shot 2) cho phù hợp, thậm chí là trộn chung hai loại vaccine khác nhau (như Astrazenecca và Pfizer chẳng hạn). Nếu bạn chấp nhận một loại vaccine ngay từ đầu, thì nghĩa là coi như bạn có thể đã đặt cược trước vào liều 2, liều 3, liều 4… Vì vậy, nên tránh sử dụng hàng kém chất lượng, không đủ thông tin minh bạch về tính hiệu quả, hoặc không hiểu rõ nguồn gốc. Thậm chí loại vaccine bạn tiêm vào cơ thể cũng sẽ có các đặc tính gây miễn dịch khác nhau, tùy theo cơ chế sinh miễn dịch.
8. Việc minh bạch trong sử dụng loại vaccine, áp dụng cho độ tuổi nào, trường hợp bệnh lý nào, shot 1 dùng cơ chế vaccine nào, shot 2 dùng cơ chế vaccine nào, cũng sẽ giúp cho việc điều tra dịch tễ sau khi tiêm chủng được tốt hơn, có thể biết loại vaccine nào giúp tạo kháng thể chống lại bệnh dịch hiệu quả nhất, tránh lãng phí tiền bạc, công sức và thời gian tiêm chủng, ngoài ra còn giúp xã hội hồi phục lại mà không sớm bị đe dọa bởi một làn sóng lây nhiễm mới.
9. Theo Hành tinh Titanic, qua các phân tích và báo cáo trên, những vaccine dùng công nghệ làm yếu virus truyền thống của Trung Quốc (SinoVac và SinoPharm) không có hiệu quả chống COVID-19 cao bằng các vaccine công nghệ mRNA của Mỹ và phương Tây. Chúng chỉ có mức hiệu quả tương đối mà thôi, cũng như các vaccine phương Tây không thể bảo đảm 100% khả năng đạt miễn dịch. Tất nhiên, nghiên cứu dịch tễ học sau tiêm chủng của vaccine Trung Quốc đã bị thiếu sót và sai lệch vì nhiều lý do, nhưng chúng vẫn có một số khả năng bảo vệ nhất định, ví dụ như chống nhập viện, nguy kịch và tử vong.
Nói chung, dù các bạn có tiêm thì cũng phải đề phòng tối đa khả năng bị lây nhiễm và truyền bệnh dù đã tiêm chủng. Đừng vì tiêm vaccine của Mỹ, phương Tây hay Trung Quốc mà chủ quan. Mọi nguy cơ vẫn còn đang ở phía trước. Loài người chưa thoát khỏi coronavirus được đâu. Đừng để ý thức hệ chính trị che lấp khả năng nhận thức về các kết quả chống dịch, chủ yếu là nhờ giãn cách xã hội, thay đổi nếp sống sang môi trường lành mạnh hơn, nâng sức đề kháng, thoát khỏi cuộc sống đô thị căng thẳng và đầy hóa chất.
Cuối cùng, quan trọng là nhà cầm quyền Việt Nam cần hiểu rằng nếu họ triển khai một vaccine yếu kém, thì kết quả tiêm chủng chẳng đi đến đâu, và quốc gia vẫn có thể lún sâu vào dịch bệnh dù đã tốn công sức cho chiến dịch tiêm chủng. Ngoài ra, lòng tin của dân chúng vào vaccine cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề sau đó. Vì vậy, cần khôn ngoan và minh bạch trong chính sách tiêm chủng chống dịch nữa.
Đúng như dự báo ban đầu của Hành tinh Titanic, loài homo sapiens sẽ cần phải thay đổi hoàn toàn nếp sống của mình, học cách sống chung với COVID-19, và luôn ở vị trí hụt hơi trong cuộc đua với coronavirus. Hoặc chúng ta phải tự bảo vệ mình để không bị nhiễm, hoặc phải nghĩ đến tiêm vaccine điên cuồng (2 – 4 lần một năm).
Hoặc chúng ta rời bỏ hệ thống kinh tế và sống an ổn ở quê nhà, tự làm nông nghiệp bền vững, tự cung tự cấp và sống giãn cách nơi thiên nhiên rộng rãi.
Hoặc chúng ta luôn phụ thuộc vào tiêm chủng nếu quyết định ở lại nơi đô thị, chui rúc trong các công xưởng, bán sức lao động để kiếm vài đồng bạc.
Đó là chưa kể đến việc các bệnh dịch mới sẽ xuất hiện khi khí hậu thay đổi, và nhiều thảm họa khác sẽ xảy ra trong tương lai khi hệ sinh thái sụp đổ và cuộc đại tuyệt chủng ập tới. Đây là lúc các bạn tự chọn lựa cho tương lai và số phận của mình.
Hãy biết rằng, nếp sống công nghiệp và đô thị, với tất cả những chất lượng sống tồi tệ, thực phẩm tẩm hóa chất, đầu óc căng thẳng, thuốc Tây vô tội vạ… hiện là nguyên nhân khiến hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Trong một nghiên cứu thống kê dịch tễ mới công bố của Mỹ, trong 540.667 người phải nhập viện vì tình trạng COVID-19 trở nặng trong giai đoạn từ tháng 3/2020 đến tháng 3/2021, có 50,4% bị cao huyết áp mãn tính (essential hypertension), 49,4% bị rối loạn chuyển hóa lipid – hay còn gọi là mỡ máu cao (disorders of lipid metabolism), 33% bị béo phì (obesity). Các yếu tố gây tử vong vì COVID-19 trong số case nhập viện trên chủ yếu là do béo phì, rối loạn thần kinh – tâm lý và tiểu đường. Đây chính là các căn bệnh điển hình của xã hội công nghiệp Mỹ.
Thống kê về trẻ em cũng không khác gì nhiều. Trong số 43.465 case mắc COVID-19 từ 18 tuổi trở xuống, độ tuổi trung bình (phạm vi liên phần tư) là 12 (4-16) tuổi, 22.943 (52,8%) là trẻ em nữ và 12.491 (28,7%) có mang bệnh lý cơ bản. Các tình trạng được chẩn đoán phổ biến nhất trong số này là hen suyễn (4.416 [chiếm 10,2%]), rối loạn phát triển thần kinh (1.690 [chiếm 3,9%]), rối loạn liên quan đến lo lắng và sợ hãi (1374 [chiếm 3,2%]), rối loạn trầm cảm (1209 [chiếm 2,8%]), và béo phì (1071 [chiếm 2,5%]). Các yếu tố bệnh lý nền khiến nguy cơ nhập viện cao nhất trong nhóm trẻ em bị COVID-19 là tiểu đường loại 1 (tỷ lệ nguy cơ đã điều chỉnh [aRR], 4,60; KTC 95%, 3,91-5,42) và béo phì (aRR, 3,07; KTC 95%, 2,66-3,54), và các yếu tố nguy cơ mạnh nhất đối với bệnh COVID-19 nghiêm trọng là bệnh tiểu đường loại 1 (aRR, 2,38; 95% CI, 2,06-2,76) và các dị tật bẩm sinh về tim và hệ tuần hoàn (aRR, 1,72; 95% CI, 1,48-1,99).
Một người bạn của chúng tôi bên Mỹ, học về Forensic Pathology (bệnh học pháp y), cộng thêm 5 năm nghiên cứu về Biomedical (khoa Y sinh), cho biết Hệ Miễn Dịch (Immunity System) và Hệ Thần kinh Trung ương (Central Nervous System) luôn có những liên kết rất chặt chẽ với nhau. Một hệ thần kinh yếu, bao gồm cả trung ương và ngoại biên, sẽ không đủ để phản ứng lại trước bất cứ mối đe dọa xâm nhập nào của mầm bệnh vào cơ thể. Ông giải thích:
“Hệ thần kinh thông qua hàng triệu các ổ thần kinh báo động (Neurons) khắp cơ thể có nhiệm vụ gửi tín hiệu đến Trung ương Thần kinh. Các ổ và tế bào thần kinh này phải vận hành tốt thì các chức năng bảo vệ cơ thể chúng ta mới vận hành tốt được. Các hệ tế bào này bao gồm:
Đây là tất cả các “sư đoàn” đặc nhiệm trong hệ miễn dịch. Tất cả những “sư đoàn” thiện chiến này cũng vô nghĩa nếu các “ổ trinh sát” của hệ thần kinh bị sách nhiễu, suy yếu hay thao túng bởi những gì cơ thể chúng ta tiếp thu, từ thức ăn độc hại, bệnh sử mãn tính hay vì các loại thuốc y dược tác động trực tiếp vào khả năng làm việc của tế bào thần kinh, mà chính ngành dược phẩm phương Tây (bao gồm cả FDA – Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ) tiếp tay bán cho người tiêu dùng.
Để dễ hiểu, hệ miễn dịch của chúng ta cần đảm bảo 3 chức năng cơ bản quan trọng để có được khả năng chống mầm bệnh nói chung, và Covid-19 nói riêng, một cách hiệu quả, bao gồm: RESPONSE (Phản ứng), MEMORY (ghi nhớ) và SENSORY (cảm thụ).
Covid-19 khác với tất cả các giống vi khuẩn đường hô hấp từ xưa đến nay là nó có khả năng sinh sản Spike Proteins (protein gai/dằm) rất nhiều và rất nhanh. Spike Proteins là nhóm Proteins dẫn đường cho con vi khuẩn chui vào tế bào cơ thể. Trong khi đó, hệ miễn dịch luôn luôn có hàng triệu “tổ tuần tra phản ứng nhanh (first response teams)” gọi là CYTOKINES, có mặt trong từng khoảnh khắc ở khắp cơ thể.
Nhưng cơ chế CYTOKINES không tự khởi động, mà phải được điều khiển bởi cơ chế “ra lệnh và điều khiển” nhờ các ổ thần kinh trực thuộc hệ thần kinh trung ương, gọi là MICROGLIA (tủy bào (myeloid), đại thực bào (macrophages), tế bào tua – trình diện kháng nguyên (dentritic), tế bào lympho T, tế bào lympho B và tế bào tiêu diệt tự nhiên (Natural Killer cells).
Tất cả hệ thống này được kích hoạt bởi mạng lưới thần kinh khắp cơ thể, gửi tín hiệu đến hệ thần kinh trung ương, để từ đó hệ thần kinh tạo tín hiệu cho phép các CYTOKINES khắp cơ thể tìm và bao vây virus qua Hệ Bạch huyết bào Thần kinh (Lymphatic Nerve System). Nếu khả năng phản ứng của hệ thần kinh qua MICROGLIA bị suy yếu vì một lý do nào đó, khả năng phản ứng và tạo ra CYTOKINES của hệ miễn dịch sẽ suy yếu, và hệ miễn dịch sẽ không tạo đủ số lượng hay chất lượng CYTOKINES bao quanh tế bào của mầm bệnh hay virus/vi khuẩn. Khi đó, con người sẽ bị nhiễm bệnh nhanh hơn, dù có tiêm chủng vaccine đầy đủ.
Từ khi sinh ra, cơ thể người mẹ sẽ truyền sang cho bào thai một hệ thống kháng thể cần thiết. Rồi khi thai nhi trưởng thành, một số kháng thể khác được tạo ra để chống lại bệnh tật ngay sau khi khỏi bệnh. Khi chúng ta tiêm chủng nhiều thứ bệnh khác nhau từ nhỏ, như sởi, uốn ván, viêm gan (hepatitis), cúm (influenza), Covid-19… cơ thể chúng ta sẽ đào tạo những loại kháng thể có khả năng ghi nhớ, chống lại bệnh đó theo chu kỳ quanh năm hay cả đời. Đây chính là nhóm Memory Cells chống bệnh. Nhưng hệ thống ghi nhớ bệnh và tạo kháng thể này có hoạt động mạnh hay yếu, nhiều hay ít, tùy thuộc vào sức khỏe của hệ thần kinh đang điều khiển nó. Nếu vì bất cứ lý do tâm lý, bệnh lý hay vì sự quấy phá của bất cứ một dược chất nào tác động đến hệ thần kinh, khả năng của memory cells sẽ suy yếu, tác động đến khả năng và chất lượng của các Memory Cells chống bệnh, và người đó sẽ dễ bị virus thao túng hơn người khác.
Khả năng cảm nhận/cảm thụ vi khuẩn hay bất cứ yếu tố độc hại nào hiện diện trong đường hô hấp là tối quan trọng cho việc kích hoạt các tế bào thần kinh, giúp hệ thần kinh truyền lệnh chính xác để hệ miễn dịch làm việc. Nhờ hệ thần kinh trong cơ thể chúng ta, thông qua hệ thống thần kinh bạch huyết (Lymphatic Nerve System) từ khi phát triển thành con người hoàn chỉnh, Tạo Hóa đã ban cho chúng ta khả năng cảm nhận này qua hàng tỷ Sensory Nerves (đầu mối thần kinh thụ cảm) để nhận diện bất cứ thể loại mầm bệnh, virus/vi khuẩn, dược chất ngoại xâm, để rồi tạo phản ứng tương ứng. Sau khi chào đời, cơ thể chúng ta trải nghiệm hàng trăm ngàn thay đổi và phát triển các cơ cấu cảm ứng từ các kích thích thần kinh (excitatory neurons), ức chế thần kinh (inhibitory neurons)… dẫn đến sự hình thành hoàn hảo hệ miễn dịch. Chính vì thế, Hệ thần kinh Cảm thụ (Sensory Nerve System) đóng vai trò tối quan trọng trong việc chống coronavirus thâm nhập. Đa số các case bệnh đã tiêm vaccine, nhưng bị nhiễm biến chủng Delta từ 1 đến 3 ngày rồi mà không biết, đều nói lên một sự suy yếu nào đó trong khả năng cảm nhận của các tế bào cảm thụ thần kinh này. Sau khi được tiêm chủng, khả năng phản ứng của hệ miễn dịch, với hình thức tấn công tổng lực Cytokines và ghi nhớ kháng thể Memory Antibodies – tức là phần 1 và 2 ở trên – chắc chắn đã hình thành trong người đã tiêm vaccine. Nhưng nếu người đó, vì lý do riêng, chỉ có khả năng cảm nhận (phần 3 này) yếu kém, thì xác suất khiến họ dính bệnh Covid-19 sẽ rất cao, dù đã tiêm chủng rồi! Nếu chúng ta tìm ra tại sao người đó mất hay kém đi khả năng cảm nhận ngoại chất xâm nhập hay vi khuẩn/mầm bệnh, chúng ta sẽ khám phá ra được nguyên nhân tại sao họ dễ nhiễm hơn người khác.
Hệ thống Cảm thụ Thần kinh Đầu cuối (Sensory Nerve Endings) thuộc về Hệ Thần kinh Cảm thụ (Sensory Neuron Network) từ miệng, mũi và cổ họng trong cơ thể chúng ta phải nói là khá độc đáo và tinh xảo không thể tả được, vì đường hô hấp là đại lộ mà cơ thể chúng ta phải tiếp nhận hàng triệu sinh chất, vi khuẩn, vi trùng và chất dơ bẩn khác từ thức ăn, bụi bặm… Sức khỏe của hệ thống này nắm vai trò tối quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể. Nếu nó bị tác hại trực tiếp hay gián tiếp bằng bất cứ tác nhân nào, đấy sẽ là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến khả năng bị nhiễm bệnh nhanh hay chậm, mạnh hay yếu của chính cơ thể bạn, cho dù bạn đã vaccine hay không, cho dù bạn có kháng thể ghi nhớ (memory antibodies) hay không, cho dù số lượng kháng thể (antibodies) các loại có đầy đủ trong cơ thể bạn, cho dù bạn đã tiêm vaccine và cho dù con số hiệu quả có đến 100% chăng nữa, nhưng khi những tế bào thần kinh cảm thụ (sensory nerves) trong đường hô hấp hay cổ họng bạn bị phá rối năm này qua năm khác, cổ họng bạn sẽ không cảm nhận nhanh, đúng và đủ kịp thời để phản ứng lại kẻ thù đang xâm nhập….
Vai trò của hệ thần kinh qua các “chốt báo động” Neuron Cell System trải dài trong đường hô hấp là tối cần thiết để điều động khả năng kích hoạt kháng thể chống Covid-19 cho Hệ Hô Hấp – Mặt trận đầu tiên trong cơ thể người. Dù hệ miễn dịch của người đó mạnh như thế nào, còn thêm cả kháng thể ghi nhớ (Memory antibodies) và các nhóm kháng thể khác nhờ tiêm vaccine, nhưng Hệ Miễn Dịch không tự khởi phát và phải có tín hiệu chỉ đạo từ Hệ Thần Kinh qua hệ thống các tế bào cảm thụ, thì dù đã tiêm chủng, đã miễn nhiễm và với hệ miễn dịch bình thường, người đó vẫn có thể nhiễm bệnh. Và chúng ta có thể xác định rằng, 80% nguyên nhân là hệ thần kinh gửi tín hiệu bị cản trở hay suy yếu, nên cơ thể người đó không cảm nhận sự hiện diện của các Spike Protein của virus SARS-CoV-2 để báo cho hệ thần kinh biết. Từ đó, nếu tìm ra được nguyên nhân hệ thống báo động thần kinh trong đường hô hấp không thể phản ứng nhanh như bình thường, chúng ta sẽ biết lý do tại sao người đó dễ bị nhiễm hơn người khác, mặc dù đã tiêm vaccine chống bệnh loại tốt.
Chức năng và tầm vận hành của Hệ Miễn Dịch của cơ thể người rất chính xác và đặc trưng đối với mọi loại virus/vi khuẩn và bệnh trạng. Cho dù một người có những vấn đề miễn dịch bẩm sinh hoặc thứ phát, gọi chung là các bệnh/hội chứng Suy Giảm Miễn Dịch (Immune Deficiency Syndromes – IDS) như Phản ứng Thái quá (Hyper Reactivity) hay Dị ứng Nhạy cảm Thái quá (Hypersensitivity Allergy) với các tác nhân từ môi trường bên ngoài (như phấn hoa, đồ ăn), Chứng Tự Miễn dịch (Autoimmune Diseases – một phản ứng miễn dịch bất thường đối với phần bình thường trên cơ thể) và bệnh Ung thư (Cancer), thì không có nghĩa là người đó sẽ có vấn đề trong hệ thống cảm thụ/phản ứng thần kinh nơi đường hô hấp. Nhưng nói chung, chỉ có khoảng 3% người Mỹ bị IDS và người bị IDS không có vấn đề suy yếu thần kinh trong đường hô hấp, trừ khi phổi người đó đã suy yếu vì những bệnh cơ hội khác xuất hiện nơi cơ quan này. Chúng ta nên nhớ rằng, tiến trình xâm nhập tế bào đường hô hấp xảy ra trong vòng từ 3-10 phút khi mầm bệnh/chất ngoại lai dính vào màng nhầy của cuống phổi/phế quản. Thường thì ở người đã miễn dịch nhờ tiêm vaccine, khả năng cảm thụ của tế bào thần kinh nơi đây sẽ có phản ứng trong vòng 1 giây. Chỉ cần chậm trễ vài phút là virus SARS-CoV-2 có thể xâm nhập vào tế bào khỏe, cho nên vai trò của thần kinh hệ tối quan trọng trong việc điều hành hệ miễn dịch chống lại bất cứ bệnh nào, kể cả COVID-19.
Rất tiếc phải xác định rằng 99% của sự suy yếu của hệ thần kinh và các tế bào cảm thụ đầu cuối của thần kinh ngoại biên nơi hệ hô hấp đều bắt nguồn từ những loại HÓA CHẤT NHÂN TẠO và SẢN PHẨM Y DƯỢC, mà những tập đoàn dược tỷ phú Mỹ hiện bán đầy Walmart, CVS, Costco từ lâu với sự đồng tình và cho phép của FDA (Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ) từ bao nhiêu năm nay… Ở Việt Nam, các loại thuốc này cũng được bán tràn lan không cần kê đơn hoặc có chỉ định từ bác sĩ/y sĩ. Vậy những tác nhân và dược chất ấy ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ và ra quyết định của hệ thần kinh trung ương và hệ thống tế bào thần kinh nơi cơ quan hô hấp là gì?
Muốn minh chứng chính xác, chúng ta phải hiểu những chi tiết và phương cách tinh vi mà con người đã dùng công nghệ khoa học để chế ra nó nhằm thao túng và lừa đảo người dùng. Các loại thuốc đó là:
THUỐC SỔ MŨI, THUỐC HO, THUỐC CẢM SỐT, THUỐC DỊ ỨNG PHẤN HOA, LÔNG THÚ…: CHÚNG CÓ THẬT SỰ TRỊ ĐƯỢC BỆNH SỔ MŨI, HO, CẢM, SỐT, DỊ ỨNG HAY KHÔNG?
HẬU QUẢ CỦA NHỮNG DƯỢC CHẤT NÀY VỚI HỆ THẦN KINH VÀ MIỂN NHIỄM TRONG TIẾN TRÌNH CHỐNG VI KHUẨN TRONG ĐƯỜNG HÔ HẤP RA SAO?
Không cần phải nói thêm, đây là những loại thuốc quá thông thường mà hàng ngày, hàng chục triệu dân Âu Mỹ phải thay phiên nhau đi mua từ $6 đến $12/chai, sáng tối uống vô, mặt mũi bơ phờ không làm ăn gì được. Có người sổ mũi hay ho triền miên mà cứ phải uống mỗi 4 tiếng/lần, nhưng vẫn chảy nước mũi, vẫn ho, vẫn cảm sốt vài ngày mới hết… Tệ nhất là những người nào hay có phản ứng với phấn hoa (pollen) hay lông chó, mèo, mỗi lần có phản ứng là rất khổ sở, mệt mỏi suốt ngày không làm gì được…. Mà các loại thuốc này thì không rẻ: Ít nhất trên $10 mà trung bình là $20… Mỗi năm, dân Mỹ chi hơn 20 tỷ USD cho mỗi loại thuốc trên. Đáng tiếc là không cần phải là bác sĩ hay dược sĩ, xin thẳng thắn khẳng định với quí vị là KHÔNG một loại thuốc Over-the-Counter – OTC (bán ngoài chợ – không cần kê đơn) nào được thiết kế để “trị” bất cứ nguồn gốc của bệnh ho, sổ mũi hay cảm cúm sốt gì cả. Nó chỉ thao túng (manipulate) hệ thần kinh bằng hóa chất, làm mất cảm ứng của thần kinh, làm ta không thấy ngứa cổ nên không ho… Dựa trên nguyên lý ức chế chức năng thần kinh nơi đường hô hấp, những loại thuốc này không tạo nên một tác động trực tiếp nào vào nguyên nhân gây ra sổ mũi, ho, cảm, sốt hay dị ứng – nói trắng ra là thuốc ho, cảm, sổ mũi nhưng không trị bệnh ho, cảm, dị ứng gì cả – mà là tác động vào, thậm chí có thể phá rối, hệ thần kinh từ các tế bào cảm thụ chuyên phát/nhận tín hiệu chống độc chất hay vi sinh xấu. Nói chung, nhiệm vụ của nhóm thuốc này là: Đánh lừa cảm nhận của cơ thể bạn, để bạn không biết ho, cảm, dị ứng… Tất cả cái gọi là “thuốc ho”, “thuốc dị ứng”, “thuốc sổ mũi” này ít nhiều sẽ làm cho hệ thần kinh suy yếu, cùng với đó là khả năng phòng và phản ứng khi có độc chất hay vi khuẩn thâm nhập, nếu sử dụng chúng quá nhiều hay quá lâu!
Dưới đây, có ít nhất 3 nhóm chính trong dạng thuốc này và dùng rất nhiều cho dân Âu Mỹ khi trị chứng chảy mũi, ho, cảm, sốt, là: THÔNG MŨI – DECONGESTION, NGĂN/ỨC CHẾ TRIỆU CHỨNG – SUPPRESSION và KHÁNG HISTAMINE/DỊ ỨNG – ANTIHISTAMINE. Tác dụng của chúng bao gồm:
a) TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP VÀO HỆ THẦN KINH THỤ CẢM KHIẾN NÃO BỘ TĂNG, GIẢM LƯU LƯỢNG MÁU. HUYẾT ÁP, ẢNH HƯỞNG GIÁN TIẾP ĐẾN KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA HỆ MIỄN DỊCH, như trong trường hợp của loại thuốc “DECONGESTION” (chống ngẹt mũi, sổ mũi tức thời)
b) TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP VÀO HỆ THẦN KINH THỤ CẢM ĐỂ NGĂN CHẶN CẢM GIÁC NHẬN THỨC BỊ HO của cơ thể, từ não bộ và từ vùng não dưới đồi (Hypothalamus). Một số dược chất kết hợp với các dược chất khác có khả năng làm tê liệt các tế bào thần kinh cảm thụ trong lớp màng đường cuống họng và cổ, để con người không có cảm giác cần ho (hệ miễn dịch từ đó không thể phản ứng được). Mặt khác, chúng ngăn chặn các tín hiệu từ não để cơ thể mất cảm giác cần phải ho – khiến người ta “hết ho”, nhưng những thứ độc hại hoặc mầm bệnh tạo ra cơn ho, thì chúng không trị được cái gì cả. Đây là công dụng chính của nhóm thuốc gọi là “SUPPRESSION”
c) TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP VÀO HẠCH THẦN KINH TRÊN CỔ (SUPERIOR CERVICAL GANGLION) BẰNG CÁCH TẠO RỐI LOẠN XUNG ĐIỆN (ELECTRICAL PULSE) tại CÁC ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN THẦN KINH (NEURON TRANSMITTERS). Khi hữu sự, não bộ sẽ truyển lệnh cho hệ miễn dịch tiết ra một sinh chất có tên là “HISTAMINE”. Histamine là một sinh chất tự nhiên sẽ xuất hiện khi có dấu hiệu độc chất hay vi sinh độc hại thâm nhập vào cơ thể. Histamine làm giãn mạch máu giúp kháng thể chống khuẩn và một số protein chống độc chất được tiết ra nhanh hơn để tiếp cận nguồn bệnh. Đây là một nhóm thuốc khá thông dụng dùng “trị” cảm cúm và cả dị ứng trong nhóm ANTIHISTAMINES.
1. Các thống kê của Mỹ (có độ tin cậy khá cao) cho thấy chính nếp sống công nghiệp, thói quen tiêu dùng vô độ, sự hưởng thụ tham lam, đã gây ra tình trạng tâm lý luôn căng thẳng (làm việc cật lực quên giờ giấc – quên nghỉ ngơi – chạy đua cạnh tranh – bằng mọi giá đạt chỉ tiêu đề ra), bệnh béo phì/mỡ máu cao/tiểu đường (tiêu thụ thức ăn nhanh – thực phẩm nạp nhiều năng lượng trong một lần – không tập thể dục – ngồi một chỗ), huyết áp cao (do căng thẳng và sinh hoạt thất thường), lạm dụng thuốc chữa triệu chứng tức thời (để còn lao đầu vào làm việc, kiếm tiền, vui chơi, mua sắm)… Tất cả những điều này khiến người Mỹ và Châu Âu, cũng như những người đang quen sống trong môi trường đô thị “an toàn tối đa”, dễ chết hơn trong làn sóng dịch thứ nhất (của biến chủng Alpha). Hệ miễn dịch của họ đã suy yếu từ lâu vì kiểu sống như vậy. SARS-COV-2 chỉ là giọt nước làm tràn ly mà thôi.
2. Quay trở lại quá khứ cách đây chỉ 1 năm, chúng ta nên để ý thấy rằng trong làn sóng lây nhiễm thứ nhất và thứ hai, Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á, xứ nhiệt đới, không bị lây lan nhiều, và nếu có lây lan, thì số case tử vong cao trên 1 triệu người cũng khá thấp. Đại dịch chủ yếu càn quét và để lại nhiều thương vong tại các trung tâm thương mại (ở cả Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc… lẫn Châu Âu và Bắc Mỹ). Nhưng sau khi loài homo sapiens coi thường bệnh dịch và để nó lây lan vô tội vạ, đã xuất hiện các biến chủng mới và độc địa hơn, ở tại Brazil, Anh, Nam Phi, Ấn Độ… Chúng ta để ý thấy rằng các biến chủng xuất hiện tại những quốc gia nhiệt đới, đã từ lâu quen với mầm bệnh, có nếp sống không đạt tiêu chuẩn vệ sinh tối thiểu, lại là những biến chủng có khả năng tấn công một hệ miễn dịch mạnh (như dân Ấn Độ, Đông Nam Á), lấn lướt và đe dọa vượt qua cả vaccine. Như vậy, trong tương lai, mối đe dọa vẫn còn và có khả năng phát triển hơn nữa, nếu loài người cứ tiếp tục để dịch bệnh lây lan không kiểm soát. Cho dù Mỹ, Trung Quốc và phương Tây có tiêm bao nhiêu mũi vaccine đi nữa, mà họ không biết chăm sóc và lo lắng cho dân nghèo Châu Phi, Nam Á…, thì một biến chủng mới mạnh mẽ hơn vẫn sẽ xuất hiện đè bẹp mọi nỗ lực vượt thoát dịch bệnh của loài người. Đó là số phận của tất cả chúng ta, khi đã phát triển và tăng trưởng không đồng đều, không công bằng và quá tham lam. Nó cũng giống hệt việc Mỹ, Australia và phương Tây bảo vệ rừng và môi trường của riêng họ, nhưng lại kiếm tiền trên những công xưởng và mớ than đá được đốt ở Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, Châu Phi. Thế rồi rừng của họ vẫn cháy, nền nhiệt của họ vẫn tăng cao, đại tuyệt chủng vẫn ập tới trên đầu tất cả mọi người. Đó là vì mọi thứ trên hành tinh này đều kết nối với nhau, đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta không thể sống kiểu như “ta giàu ta sung sướng, kệ mẹ tụi bây” được.
3. Việc đạt được miễn dịch tốt không phải lúc nào cũng là do vaccine. Có những người bị nhiễm COVD-19 không hề bị bệnh nặng, thậm chí không có triệu chứng. Nhưng cũng có những người đột ngột trở nặng và tử vong. Rồi cũng có những người đã tiêm chủng đầy đủ, vẫn nhiễm bệnh, thậm chí tử vong. Tại sao lại thế? Đó là vì các yếu tố sau sẽ tác động đến khả năng bảo vệ chúng ta:
– Thứ nhất, hệ miễn dịch của chúng ta có khỏe và được hỗ trợ bởi chế độ dinh dưỡng tối ưu hay không? Việc sử dụng kẽm hay các chất dinh dưỡng khác chỉ hỗ trợ giúp tạo ra nhiều tế bào miễn dịch khỏe mà thôi, nhưng chưa đủ.
– Thứ hai, một hệ miễn dịch khỏe tự thân đã có khả năng chống bệnh. Chúng có thể học và ghi nhớ mầm bệnh bằng nhiều cách: nhiễm và tự khỏi, hoặc tiêm chủng. Việc tiêm chủng chỉ là cách để dạy cho hệ miễn dịch hiểu và nhận ra mầm bệnh. Việc sinh kháng nguyên tùy thuộc vào một hệ miễn dịch khỏe và lành mạnh. Số lượng, mức hiệu quả và thời lượng tác dụng của kháng nguyên có kéo dài hay không là tùy thuộc vào chất lượng của hệ miễn dịch. Hệ miễn dịch suy yếu thường xuất hiện ở người có bệnh nền và người già.
– Thứ ba, điều quyết định quan trọng nhất, chính là liệu hệ thần kinh của chúng ta có nhận ra kẻ thù hay không. Nếu chúng không thể xác định được mầm bệnh, thì coi như hệ miễn dịch của chúng ta chỉ ở đó để làm kiểng mà thôi. Có ăn uống bổ dưỡng, có tiêm chủng vaccine tốt, mà thần kinh căng thẳng và bị ức chế bởi nếp sống, thì cũng bằng thừa. Đó chính là các trường hợp nhiễm bệnh có triệu chứng và cả tử vong, dù đã tiêm chủng. Các trường hợp này có thể xuất hiện ở cả Mỹ, Anh, Israel và Trung Quốc nữa.
4. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, liệu trong tương lai chúng ta có thể chịu đựng nổi việc tiêm 3,4 mũi vaccine/năm để chống COVID hay không? Điều gì sẽ xảy ra dưới áp lực như vậy? Cũng giống như việc tàn phá môi trường sống và nền khí hậu, chính nếp sống tư bản vị lợi nhuận (dù đỏ hay xanh) đang tàn phá từ môi trường sống bên ngoài đến tận từng tế bào bên trong cơ thể của chúng ta. Liệu việc kiếm được nhiều tiền bạc và của cải có đáng phải hy sinh quá nhiều như thế hay không? Liệu sau khi mọi thứ sụp đổ, từ môi trường sống đến sức khỏe, chúng ta có mang theo được tiền bạc khi đã buông xuôi và chết hay không? Mục đích sống trong cuộc đời này là gì? Chúng ta có hạnh phúc thật khi đuổi theo những thứ phù vân và phù phiếm hay không? Sự thay đổi đáng phải thực hiện nên là gì? Chúng ta còn cơ hội để làm được điều đó nữa hay không? Đây là lúc cần suy nghĩ. Coronavirus chỉ là liều tiêm chủng đầu tiên của hành tinh Trái Đất nhằm chống lại loài homo sapiens virus mà thôi. Trong tương lai, khi cả hành tinh này “sốt lên” theo nghĩa đen, sẽ có nhiều “đại thực bào” và “bạch huyết bào” siêu bão, sốc nóng, hạn hán, lũ lụt, mưa xối xả… thực hiện nhiệm vụ của mình, là quét sạch loài sâu bọ này ra khỏi cơ thể hệ sinh thái của Trái Đất. Đừng kiêu căng và ngạo mạn nữa.
Phần chia sẻ ý kiến
Tks tác giả
Giá mà trang có Tiếng Anh, mình có thể chia sẻ cho nhiều bạn bè quốc tế đọc.
Rất hữu ích. Xin cảm ơn!