TỔNG QUAN VỀ CÁC LOẠI THUỐC CHỮA TRỊ TẠM THỜI NCOV
Sau một status gây tranh cãi trên facebook page Hành tinh Titanic: tôi đã mất nhiều thời gian để trả lời cho các comment bên dưới – hầu như không ăn nhập gì với nội dung tôi...
Lọc theo mục lục
Sau một status gây tranh cãi trên facebook page Hành tinh Titanic: tôi đã mất nhiều thời gian để trả lời cho các comment bên dưới – hầu như không ăn nhập gì với nội dung tôi...
CON NGƯỜI, COVID-19 VÀ SỰ SỤP ĐỔ HỆ SINH THÁI Khi một hệ sinh thái tự nhiên vượt qua điểm bùng phát (tipping point), nó sẽ sụp đổ (collapse) và chuyển sang trạng thái mới (regime...
Hôm 17/3/2020, nhà báo Thomas L. Friedman đã có một bài viết khá thú vị trên tờ The New York Times. Ông suy tư, so sánh và tiên báo sẽ có một sự khác biệt khá lớn diễn biến lịch...
Tôi sẽ điểm qua một số thông tin mới đáng quan trọng về đại dịch nCoV mà các bạn cần phải đề phòng: A. Thứ nhất, cho đến tối hôm nay (18/3/2020) số case nhiễm toàn cầu đã vượt con...
Vào buổi sáng ngày 12/3/2020 vừa qua, mật độ khí methane cao tột đỉnh lên đến 2.902 ppb (phần tỷ) đã xuất hiện ở độ cao áp suất khí quyển 469 mb (millibar), tương đương với khoảng...
Thật thú vị khi chứng kiến các biến cố và cách mà loài người hiện đang chống lại cơn khủng hoảng đại dịch nCoV. Nó giống hệt các phản ứng của thế giới đối với cuộc khủng hoảng khí...
Một lần nữa, tôi lại viết thêm một status (dù đã có lần đề cập đến điều đó trước đây), sau khi CNN vừa có một bài phân tích khá đầy đủ về vấn đề này. Xem: Đó là vì nhiều quan chức...
Miễn dịch cộng đồng và sự mập mờ Miễn dịch cộng đồng (herd immunity) có thực sự là mục tiêu chính phủ Anh hướng tới trước đại dịch Covid-19 hay không, điều đó vẫn bị phủ bởi một...
Chuyện Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tiếp tục quyết định bơm thêm 1.500 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ Mỹ “để chống đại dịch nCoV” và “cứu giúp tình hình kinh...
Hiện chính phủ Anh đang có chiến lược cho lây lan nCoV thoải mái để hy vọng bệnh dịch này sau khi nhiễm cho từ 60% dân số trở lên sẽ xuất hiện các case miễn dịch tự động (sau khi...
Sau một status gây tranh cãi trên facebook page Hành tinh Titanic:
tôi đã mất nhiều thời gian để trả lời cho các comment bên dưới – hầu như không ăn nhập gì với nội dung tôi đã đưa lên vì chống đối, hoặc là do người đọc đưa link tham khảo không chính xác. Và vì thế, xin lỗi các bạn vì đã đăng trễ bài này so với lời đã hứa – lẽ ra là vào tối ngày Thứ Sáu 20/3/2020, nhưng đến hôm nay (23/3/2020) mới hoàn thành được. Thế nhưng, việc phản đối một sự thật rằng Trung Quốc đang làm khá tốt việc chặn dịch nCoV và thế giới cần bắt chước một số phương pháp và cách trị liệu của Trung Quốc để có thể kiềm chế được cơn đại dịch này – chỉ cho thấy mindset của một số người Việt càng trở nên đui mù và không chấp nhận sự thật – dù đó có thể là phương thức khách quan để giải quyết vấn đề lây lan dịch bệnh hoặc chữa trị một căn bệnh, cũng như giảm bớt số người thiệt mạng cho bất cứ dân tộc nào khi đối mặt với khủng hoảng nhân đạo.
Đó là điều rất nguy hiểm. Phần lớn chúng ta luôn nghĩ rằng cứt của Mỹ là thơm, nhưng cứt của Trung Quốc chắc chắn thúi. Thực ra, cả hai đều thúi cả. Tuy nhiên, nếu ai bớt xì ra những điều dơ bẩn, và tìm cách dọn sạch đống phân của họ sớm hơn, thì nên công nhận điều đó. Và đấy chẳng qua là điều tốt – dù là ở nơi từng được chứng minh nhiều lần là không xấu xa và không đáng tin cậy.
Vì thế, tôi đã mất nhiều thời gian hơn để chuẩn bị đủ tư liệu và viết status này, cố gắng viết điều đó một cách chân thực, độc lập về mặt khoa học, có nguồn dẫn chính xác và luôn tỏ ra có lương tâm với nội dung của mình, vì đây thực sự là những kiến thức sẽ liên quan đến mạng sống của con người, sẽ cứu con người, chứ không phải nhằm mục tiêu chia rẽ phe phái chính trị hay phụ thuộc vào quan điểm ý thức hệ chủ nghĩa. Do đó, hãy tránh đưa ra bất cứ sai lệch nào của thuyết âm mưu hay đả phá chính trị, vì điều đó không đáng làm tốn thời gian của nhau.
Trong status này, tôi sẽ nêu ra 3 quan điểm thực tế sau đây về việc sử dụng các loại thuốc đặc trị đã được xác nhận để chữa triệu chứng do dịch bệnh nCoV (SARS-CoV-2/Covid-19) gây ra, và nó đã có những hiệu quả nhất định do được trải nghiệm bởi chính dân số nhiễm bệnh khổng lồ ở Trung Quốc trong thời gian vừa qua:
A. Chính người dân Trung Quốc và nhà cầm quyền quốc gia này đã vật lộn và thử nghiệm tất cả các loại thuốc được chứng thực có thể làm giảm triệu chứng và cứu sống bệnh nhân trong giai đoạn đầu dịch bùng phát tại đây. Trong cơn tuyệt vọng và cùng quẫn vì mối đe dọa sụp đổ hệ thống y tế, họ đã phải tự biến mình trở thành những con chuột bạch được đem ra thử nghiệm. Người ta nói rằng, “có bệnh thì vái tứ phương”, phải sử dụng bất cứ loại phương thức trị liệu và không còn gì để mất nữa. Thế cho nên, giới y tế Trung Quốc đã thử nghiệm rất nhiều loại thuốc khác nhau trên các case nhiễm, dù đó là những loại thuốc chưa được chứng thực dược tính lâm sàng đối với nCoV trước đây. Sự công bằng cần phải nhìn cho đúng tại khía cạnh này.
B. Bên cạnh quá trình thừ nghiệm trên các bệnh nhân và trả giá bằng xác người chết, Trung Quốc cũng công bố những kết quả lâm sàng của dược tính các loại thuốc lên các trang thông tin y tế uy tín và minh bạch của quốc tế. Tuy nhiên, vì Trung Quốc giấu dịch và không cho WHO cùng CDC Mỹ vào lãnh thổ của mình, nên ít ai tin Trung Quốc cả.
(Tôi nghĩ Trung Quốc làm thế vì nhiều lý do – trong đó có nguyên nhân nhạy cảm chính trị là chủ yếu:
Nhìn lại mới thấy cái thuyết âm mưu vì WHO được tài trợ bởi Trung Quốc, nên Trung Quốc bảo gì, WHO phải nghe nấy – như cấm WHO không cảnh báo sớm căn bệnh, cấm WHO bước vào Trung Quốc, bảo WHO phải đổi tên căn bệnh, rồi các thái độ chậm trễ của WHO trong việc kêu gọi đóng cửa biên giới để cách li và ngăn chặn dịch… – là chuyện rất xạo. Thực ra, cảm quan của tôi – sau khi thực tế cho thấy Châu Âu, Nhật, Mỹ, Australia chậm đối phó với dịch nCoV vì mê say lợi nhuận, WHO tỏ ra chậm chạp và thậm chí còn đốc thúc đi du lịch trong khi dịch đang bùng phát ở Vũ Hán – là do tác động và sức ép của hệ thống kinh tế tư bản hiện đại của Mỹ và Tây Âu. Hệ thống kinh tế này rất sợ phải bị rung lắc và đình trệ nên luôn cố sức chống lại sự thật về mối đe dọa.)
Về bản thân mình, thực ra tôi cũng không tin Trung Quốc và các phác đồ điều trị/gợi ý thuốc trị liệu của quốc gia này, cho đến khi Mỹ và Tây Âu bắt đầu rục rịch nhắc đến quá trình chứng thực các loại thuốc Trung Quốc đã thử qua và công bố, và cũng như cho đến khi Trung Quốc công bố không có ca nhiễm mới trong nội địa trong vòng hơn 1 tuần qua.
C. Vì phương Tây và Mỹ không được phép bước vào lãnh thổ Trung Quốc (và có lẽ Trung Quốc cũng không muốn có người lạ trong nhà của mình, khi đang trong quá trình thử nghiệm thuốc), nên họ không hiểu gì nhiều về tình trạng dịch tễ lẫn các phương pháp điều trị triệu chứng của dịch nCoV. Đợi đến khi dịch bùng phát tại đất nước của mình, giới y tế và chính trị tại Mỹ, Italy, Đức, Anh, Hàn Quốc… mới xem xét lại các bài nghiên cứu đã công bố của Trung Quốc và bắt đầu thử nghiệm một cách thận trọng theo quy trình (như FDA của Mỹ), hoặc vì tuyệt vọng trước sự sụp đổ hệ thống y tế nên ứng dụng luôn (trường hợp của Italy, Nhật, Thái Lan, Iran). Phương Tây và Mỹ luôn cần số liệu dịch tễ và chữa trị thử nghiệm tại Trung Quốc, nhưng có lẽ đã không tin tưởng vào các số liệu đó – một phần là vì lịch sử chính trị với Trung Quốc, một phần vì sẽ có nhiều loại biến chủng virus khác nhau theo thời gian lây nhiễm.
OK. Vậy giờ đây, dựa trên 3 quan điểm trên, tôi sẽ lược qua các loại thuốc mà Trung Quốc đã thử nghiệm theo thời gian công bố sớm nhất, cùng với phân tích tác dụng chữa trị/tác dụng phụ, và một số tin cho thấy các quốc gia sau đó đã ứng dụng vào chữa trị căn bệnh 2019-nCoV.
Không ai ngờ một loại thuốc chữa sốt rét – có gốc gác bào chế từ cây thuốc Ký Ninh (Quinine) (một loại cây thuốc quý ở Nam Mỹ và vùng nhiệt đới Châu Á, Châu Phi) – lại có thể được dùng để trị nCoV. Chloroquine là một dạng tổng hợp của aminoquinoline, có tác dụng bó chặt chuỗi DNA của vi sinh vật đơn bào hoặc ký sinh trùng, và chống lại quá trình sản xuất DNA và RNA cũng như sự tổng hợp protein xảy ra sau đó. Loại thuốc này cũng chống lại các hình thức sinh sản vô tính trên hồng cầu (mà sẽ phá hủy hồng cầu) của các chủng trùng sốt rét Plasmodium và trùng kiết lỵ Entamoeba. Chloroquine có liên quan về mặt cấu trúc với quinine, nhưng có tác dụng hiệu quả hơn khi chống lại các chủng ký sinh trùng gây bệnh sốt rét như là Plasmodium falciparum, Plasmodium ovale, Plasmodium malariae và Plasmodium vivax. Thuốc này cũng dễ được cơ thể tiếp nhận hơn so với quinine. Xem:
Từ ngày 11/2/2020 đến ngày 16/2/2020, đã có những nghiên cứu trị liệu thực tế được công bố tại Trung Quốc cho thấy Chloroquine Phosphate (một loại dược chất của chloroquine) có tác dụng thay đổi độ pH của thể nội bào (endosomes) và tạo ra hiệu ứng ức chế đáng kể quy trình lây lan của virus vào tế bào thông qua đường xâm nhập vào thể nội bào. Khi kết hợp chloroquine phosphate để trị bệnh trong vòng 5 ngày cho các case nhiễm 2019-nCoV và đã biểu hiện triệu chứng viêm phổi, thì tỷ lệ âm tính của chuỗi nucleic acid (của virus nCoV) nơi dịch quết họng bệnh nhân gia tăng đến 50% (5/10 số bệnh nhân). Dược lực này còn tốt hơn cả việc dùng thuốc lopinavir/ritonavir. Trong khi đó, lopinavir/ritonavir là một dược chất có tác dụng ức chế enzyme CYP3A, cũng như quy trình trao đổi chất của enzyme này (để chống virus HIV). Chuẩn đoán chứng viêm phổi do chủng coronavirus mới gây ra và chương trình trị liệu (version thử nghiệm số 5) được Ủy ban Y tế Quốc gia Trung Quốc (National Health Commission) đã đề xuất thử dùng lopinavir/ritonavir. Tuy nhiên, việc ứng dụng trước đây có dùng lopinavir/ritonavir cho thấy ít hiệu quả, với tỷ lệ âm tính của chuỗi nucleic acid (của virus nCoV) nơi dịch quết họng bệnh nhân chỉ đạt 20% trong 5 ngày chữa trị (3/15 số bệnh nhân). Xem:
Thực ra, ngay từ ngày 4/2/2020, trên tạp chí khoa học Nature, giới chuyên gia y học Trung Quốc đã có những công bố về tính hiệu quả của chloroquine đối với việc ức chế virus nCoV khi thí nghiệm trong ống nghiệm. Họ cho biết chloroquine có chỉ số EC₅₀ (half-maximal effective concentration – chỉ số tập trung một nửa phản ứng tối đa của dược lực sau một khoảng thời gian nhất định đã dùng thuốc) là 1.13 μM, chỉ số CC₅₀ (half-cytotoxic concentration – chỉ số tập trung độc sát 50% số tế bào virus trên vật chủ sau khoảng thời gian nhất định đã dùng thuốc) là hơn > 100 μM, và chỉ số SI (selectivity index – chỉ số tiêu diệt tế bào virus so với tế bào khỏe mạnh của vật chủ) > 88.50. Khi đem so sánh về độc tính gây hại cho tế bào vật chủ, thì chloroquine còn ít hơn cả remdesivir – một loại thuốc của hãng Gilead cũng được chứng minh có thể chống lại nCoV. Xem:
Họ cũng cho biết chloroquine đã được chứng thực từ lâu với chức năng ngăn chặn virus lây lan trong cơ thể con người, bằng cách làm tăng độ pH trong nội bào – khiến tế bào của virus khó kết hợp với tế bào của cơ thể, cũng như can thiệp vào quá trình glycosyl hóa (glycosylation) của các thụ thể trong tế bào virus SARS-CoV. Bên cạnh chức năng chống virus đó, chloroquine còn có chức năng điều chỉnh hệ miễn dịch, có thể hiệp lực nâng cao hiệu ứng chống virus của cả cơ thể bệnh nhân. Sau khi uống vào, chloroquine còn có thể được phân phối rộng khắp toàn bộ cơ thể, bao gồm cả phổi của vật chủ. Cuối cùng, chloroquine là một loại thuốc rẻ tiền và an toàn sau hơn 70 năm sử dụng, dễ sản xuất ở khắp mọi nơi, và do đó, có tiềm năng ứng dụng lâm sàng chống lại virus 2019-nCoV.
Cần phải nói thêm rằng, trước đó vào năm 2005, giới khoa học Mỹ và Canada đã có một công bố cho biết chloroquine là một dược chất có hiệu lực ức chế sự lây lan và lan truyền coronavirus gây bệnh SARS. Xem:
Năm 2006, giới chuyên gia y học Italy cũng công bố về các triển vọng chống virus của chloroquine, đặc biệt trên bệnh HIV và SARS. Xem:
Năm 2008, giới y tế Bỉ cũng có một nghiên cứu thực nghiệm trên chuột bạch, về chức năng chống virus của chloroquine đối với một chủng coronavirus ở người (OC43). Xem:
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên của phương Tây về chloroquine đã chưa hề được áp dụng trong trận dịch SARS năm 2003 và MERS năm 2012, chưa hề được áp dụng trên người (chỉ trong ống nghiệm hoặc trên chuột bạch). Tất cả đều cần phải rõ ràng rằng, trong đợt dịch nCoV vừa qua, chính Trung Quốc đã phải thử nghiệm chloroquine trên các case nhiễm của mình. Ngày 18/3/2020 vừa qua, lại đã có một nghiên cứu khoa học của giới y tế Trung Quốc được công bố trên Tạp chí Nature, mang tựa đề “Hydroxychloroquine, một dẫn xuất ít độc tính hơn, đang chứng tỏ tính hiệu quả trong việc ức chế sự lây lan SARS-CoV-2 ở trong ống nghiệm”. Hydroxychloroquine sulfate đã được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1946 bằng việc thêm vào một nhóm trong thuốc chloroquine phosphate để làm giảm tính gây độc cho tế bào vật chủ. Quan trọng hơn, Hydroxychloroquine vẫn còn được dùng rộng rãi để chữa các căn bệnh tự phát triển miễn dịch (autoimmune diseases), ví dụ như phát ban đỏ hệ thống (systemic lupus erythematosus) và bệnh viêm khớp mãn tính (rheumatoid arthritis). Vì chloroquine và hydroxychloroquine có cùng cấu trúc hóa học và cơ chế hoạt động như là một thuốc nền yếu và có tác dụng điều biến hệ miễn dịch (immunomodulator), nên chắc chắn nó sẽ được dùng như một dược liệu tiềm năng để để chữa trị SARS-CoV-2. Xem:
Điều quan trọng chính là Trung Quốc đều công bố tất cả các kết quả nghiên cứu này về chloroquine ra quốc tế – trên các tạp chí nổi tiếng về khoa học tự nhiên. Nên nhớ lúc đầu tháng 2, trong khi Vũ Hán và toàn bộ quốc gia Trung Quốc đang chìm trong tuyệt vọng, chỉ có các case nhiễm bệnh lác đác tại Nhật, Mỹ, Hàn, Đông Nam Á… thì thế giới đã được biết các thử nghiệm của chloroquine trên bệnh nhân Trung Quốc. Nhưng ít ai để ý đến các thông tin này. Thậm chí giới y khoa Trung Quốc còn đề xuất nghiên cứu để được bình duyệt (peer-reviewed) trên hội đồng y khoa quốc tế từ ngày 28/2/2020, đã qua 9 lần xét duyệt, nhưng đến nay vẫn chưa được thông qua. Xem:
Ngày 15/2/2020, thời báo Xinhua của Trung Quốc cũng công bố thuốc chống sốt rét chloroquine có tác dụng chữa trị Covid-19. Xem:
Nhưng giờ đây, khi đại dịch nCoV tấn công khắp nơi trên toàn cầu, các quốc gia Tây phương và Mỹ bắt đầu phải áp dụng chloroquine vào quá trình chữa trị. Từ ngày 26/2/2020, nước Anh bắt đầu hạn chế xuất khẩu lopinavir, ritonavir và chloroquine phosphate. Xem:
Các bác sĩ Pháp cũng đang thử nghiệm trên bệnh nhân của mình, và đã công bố nhiều tia hy vọng. Họ đang dùng Plaquenil – một biệt dược chứa 600mg hydroxychloroquine/viên – để điều trị Covid-19. Sau ngày thứ ba, 50% số bệnh nhân trong nhóm có dùng Plaquenil chuyển từ dương tính sang âm tính đối với virus Covid-19. Sang ngày thứ 6, 70% nhóm này đã được âm tính. Thậm chí, trong 20 bệnh nhân có dùng Plaquenil, có 6 người uống cả kháng sinh azithromycin còn thậm chí phục hồi nhanh hơn. 5 người trong 6 người này, tương đương tỷ lệ 83%, đã được chứng thực âm tính vào ngày thứ 3. Và cuối cùng, cả 6 người đều âm tính vào ngày thứ 6 sau khi dùng kép Plaquenil và azithromycin. Xem:
Thung lũng Silicon của Mỹ cũng vào cuộc. Họ ngửi thấy mùi lợi nhuận ở trong đó. Xem:
Chính Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm 19/3/2020 đã hối thúc giới y tế Mỹ cần xem xét chloroquine – một loại thuốc chống sốt rét được Trung Quốc cho là hiệu quả trong chống dịch nCoV. Thái độ vồn vã của ông này dường như để muốn khỏa lấp đi lỗi lầm xem thường căn bệnh nCoV, để bệnh dịch lan nhanh trên toàn nước Mỹ, lại dụng tâm mua độc quyền vaccine của hãng CureVac (Đức), rồi sau đó lại tung ra một cuộc thử vaccine mRNA-1273 mà đến giờ này vẫn chưa có kết quả gì cả. Về mặt lợi dụng tư cách chính trị, Trump xem Chloroquine như cái phao cứu nạn cho mình và muốn giành công tuyên bố điều đó trước cả CDC và FDA, để được dư luận ủng hộ. Xem:
Và hôm 21/3/2020, hai loại thuốc chloroquine và hydroxychloroquine cùng trở nên khan hiếm trên thị trường dược của nước Mỹ, vì các bệnh viện tại đây dường như đã sử dụng chúng để điều trị nCoV, dù chưa có bất cứ chứng cứ nào cho thấy thuốc này có hiệu quả chữa trị tại Mỹ. Xem:
Tuy nhiên, điều đáng chú ý chính là WHO, CDC và FDA vẫn chưa thông qua và chưa có công bố chính thức nào có liên quan đến chloroquine cả.
Ngày 16/2/2020, chính quyền Trung Quốc đã thông qua và chấp thuận sử dụng Favilavir trên toàn quốc như là một dược chất chuyên biệt đầu tiên trên toàn cầu được sản xuất ra để chữa trị Covid-19. Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc ngày 15/2 thông báo Favilavir là một trong ba loại thuốc chứng minh hiệu quả rõ rệt trong việc điều trị người bị mắc COVID-19 trong các thử nghiệm lâm sàng. Theo nguồn tin trên, thuốc Favilavir đã được thử nghiệm ở 70 bệnh nhân bị nhiễm COVID-19 tại thành phố Thâm Quyến. Công ty Dược Hisun Chiết Giang (Zhejiang Hisun Pharmaceutical Company) hiện đang chịu trách nhiệm sản xuất loại thuốc này. Xem:
Favilavir có chức năng chống virus, tấn công hiệu quả các chủng virus mang chuỗi gene RNA bằng cách ức chế RdRp (chuỗi enzyme có nhiệm vụ tổng hợp các đoạn ARN mới là bản sao của trình tự ARN ban đầu – RNA-depended RNA polymerase). Favilavir đã từng được sử dụng để chữa cúm ở Trung Quốc và Nhật Bản. Thực ra, favilavir có nguồn gốc từ một biệt dược tên là favipiravir, hay còn gọi là T-705 (hoặc tên thuốc Avigan), do công ty Toyama Chemical (thuộc Tập đoàn Fujifilm) của Nhật tổng hợp để chống các virus ARN. Nó là một dẫn xuất của pyrazinecarboxamide, có chức năng chống lại virus cúm, siêu vi gây bệnh West Nile, virus sốt vàng, virus gây bệnh lở mồm long móng, cũng như các chủng flavivirus khác như arenavirus (gây bệnh sốt xuất huyết), bunyavirus (gây bệnh viêm não) và alphavirus (gây sốt chikungunya). Các nghiên cứu khác cho thấy favipiravir còn có khả năng gây ra đột biến chuyển gene có tác dụng gây chết virus RNA, tạo ra kiểu hình virus không thể sống được nữa trong cơ thể vật chủ. Favipiravir không ức chế quá trình tổng hợp RNA hoặc DNA trong tế bào động vật có vú nên không gây độc cho tế bào khỏe mạnh của vật chủ. Tuy được tạo ra để chống cúm, favipiravir chưa được chứng minh là có hiệu quả đối với các tế bào trong hệ hô hấp của con người. Nhưng chính Trung Quốc lại đã công khai một phiên bản của thuốc (favilavir) này là dược chất đầu tiên để chữa Covid-19. Xem:
Điều đáng chú ý là thông tin nghiên cứu dịch tễ và dược tính của favilavir vẫn còn rất ít trên mạng quốc tế. Ngay cả Trung Quốc cũng không công bố nhiều nghiên cứu khoa học về loại thuốc này ra ngoài lãnh thổ của mình. Chỉ biết rằng, ngoài thử nghiệm thuốc hiệu quả trên 70 bệnh nhân bị nhiễm Covid-19 ở Thẩm Quyến, còn có 340 bệnh nhân khác ở Vũ Hán và Thẩm Quyến đã được xác nhận âm tính với virus nCoV sau từ 4 đến 11 ngày dùng thuốc, với tình trạng phổi được cải thiện đến 91% thông qua chụp x-quang. Xem:
Chính phủ Thái Lan hôm 22/2/2020 đã tuyên bố sẽ mua và nhập favilavir từ Trung Quốc để dùng cho việc chữa trị nCoV. Xem:
Thậm chí trên change.org, hiện đã có một cuộc kêu gọi FDA (Mỹ) thông qua favilavir và đưa thuốc này vào Hoa Kỳ để chữa trị cho người dân quốc gia này. Xem:
Vấn đề bản quyền của thuốc favilavir không được nói đến rõ ràng (dùng Nhật là bên tổng hợp đầu tiên), nhưng bây giờ, đến cả Đài Loan cũng bắt đầu sản xuất favilavir. Xem:
Hiện Nhật, Malaysia, và giờ đây là Ấn Độ cũng đã thử nghiệm lâm sàng favilavir trên các case nhiễm nCoV. Xem:
Tuy nhiên, có một điều lạ chính là giới y tế Việt Nam vẫn chưa thông qua favilavir và còn đòi hỏi kiểm nghiệm lâm sàng thuốc này của Trung Quốc. Xem:
Lopinavir và Ritonavir là hai loại thuốc được dùng để điều trị HIV (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người). Còn Ribavirin được dùng để điều trị viêm gan C. Hội chứng HIV và bệnh Viêm gan C đều do các chủng virus chuỗi RNA gây ra, và loại virus này luôn cần một nhóm enzym thủy phân có khả năng cắt mối liên kết peptide (còn gọi là protease) để tách các chuỗi proteins ra khỏi đoạn gene dài. Do đó, ba loại thuốc trên, khi ức chế các nhóm enzyme thủy phân này, có thể làm giảm lượng virus HIV và viêm gan C xuống đến mức không phát hiện ra được.
Đã từ lâu, Lopinavir và Ritonavir được chứng thực có thể dùng để điều trị SARS (từ năm 2004) bởi giới chuyên gia y tế Trung Quốc và Hong Kong. Việc sử dụng Lopinavir và Ritonavir ở bệnh nhân nhiễm virus SARS-CoV cho thấy lượng coronavirus ở trong máu giảm đáng kể và giúp gia tăng bạch huyết bào (lymphocyte) ngoại biên. Xem:
Do các chủng coronavirus luôn có chuỗi enzyme giống nhau và khá giống với HIV, nên giới y tế Trung Quốc đã thử ứng dụng lopinavir/ritonavir vào điều trị Covid-19. Trong một nghiên cứu phân tích gene được công bố trên trang bioRxiv vào ngày 29/1/2020, các nhà khoa học Trung Quốc đã viết như sau:
Protease chính yếu mang số hiệu ~306 aa (gọi là Mpro), chính là một enzyme chủ chốt cho quá trình tái tạo coronavirus, được mã hóa bởi một chuỗi polypeptide và chịu trách nhiệm xử lý chuỗi polypeptide thành các proteins chức năng. Enzyme Mpro này có đặc điểm tương tự tại các vị trí phân nhánh (còn gọi là picornavirus 3C protease (3Cpro)), là nét đặc trưng của loại virus chuỗi đơn ARN được bao bọc bởi lớp màng protein, và do đó còn được gọi là enzyme protease giống 3C (3CLpro). Nghiên cứu chỉ ra rằng enzyme Mpro này của các loại coronavirus khác nhau đều được bảo toàn bằng cả những kiểu chuỗi và cấu trúc 3D giống nhau. Đặc điểm này, cùng với tầm quan trọng về chức năng của nó, cho thấy Mpro chính là mục tiêu đáng quan tâm để thiết kế các loại thuốc chống coronavirus. Và để ức chế Mpro, hai loại thuốc chống HIV là lopinavir/ritonavir được xem như ứng cử viên tiềm năng – vì nó có một số tác dụng trên coronavirus gây Hội chứng Suy Hô hấp Cấp tính nặng SARS trước đây.
Thế là vì lý do ấy, lopinavir/ritonavir đã được giới y tế Trung Quốc đem ra ứng dụng ngay lập tức trong tình huống cấp bách vào đầu tháng 2/2020 mà không cần suy nghĩ nhiều, cùng lúc với thuốc chloroquine ở trên. Hiệp hội Xúc tiến và Trao đổi thông tin quốc tế về Chăm sóc Sức khỏe và Y tế của Trung Quốc (China International Exchange and Promotive Association for Medical and Health Care – CPAM) đã chọn kê đơn lopinavir/ritonavir (2 viên/ngày, liều lượng không rõ), cùng kết hợp với thuốc chống ung thư và kháng virus alfa-interferon (5 triệu đơn vị hòa vào nước cất để tiêm và hít vào phổi mỗi ngày 2 lần). Ngoài ra, một nhóm bác sĩ ở Hàn Quốc cũng đã dùng lopinavir (liều 400 mg) hoặc ritonavir (liều 100 mg) cho các bệnh nhân cao tuổi hoặc có triệu chứng nguy kịch. Họ không khuyên dùng ribavirin và interferon như liệu pháp hàng đầu vì sợ các tác dụng phụ. Tuy nhiên, vẫn có thể dùng thêm các dược chất này nếu việc trị liệu bằng lopinavir, ritonavir, hoặc chloroquine, hydroxychloroquine có hiệu quả (tức là kết hợp thuốc). Xem:
Tuy nhiên, đã có những chứng cứ cho thấy việc dùng thuốc lopinavir/ritonavir chỉ có một số tác dụng nhất định, và đôi khi không rõ ràng ở nhiều trường hợp, do cơ chế các enzyme hoạt động khác nhau ở người (tùy thuộc độ tuổi, tình trạng bệnh lý và bệnh nền). Loại virus nCoV mới này lại không có các chỗ trống để thuốc chữa HIV có thể lấp vào và phá hủy các enzyme trong nội bào virus. Gs. Guangdi Li thuộc trường Sức khỏe Cộng đồng Xiangya của Đại học Trung Nam (Central South University) (Tp. Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), và Ts. Erik De Clercq, một chuyên viên tiên phong trong nghiên cứu liệu pháp trị HIV thuộc Đại học KU Leuven (Bỉ) cho biết enzyme protease của coronavirus cắt các protein ở những vị trí khác nhau so với protease của HIV. Xem:
Ngoài ra, một nghiên cứu mới đăng trên Tạp chí Y Khoa New England được công bố vào đầu tháng 3/2020 bởi giới y khoa Trung Quốc, cho biết Lopinavir-Ritonavir không tạo ra nhiều lợi ích đáng kể đối với các ca bệnh nặng của Covid-19. Họ đã nghiên cứu trên 199 bệnh nhân được phòng thí nghiệm xác định có triệu chứng nguy kịch vì nhiễm nCoV, chia làm hai nhóm nhận liệu pháp chữa trị: nhóm 1 bao gồm 99 người được chữa bằng Lopinavir-Ritonavir và nhóm 2 (100 người) được chữa bằng liệu pháp tiêu chuẩn. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 58 (phạm vi tuổi từ 49 đến 68), 60,3% là nam giới. Trong số người được chỉ định chữa (intention-to-treat), các bệnh nhân được kê đơn lopinavir-ritonavir đã không thể hiện bất cứ khác biệt nào về cải thiện lâm sàng so với nhóm bệnh nhân được chữa theo tiêu chuẩn bình thường. Họ chỉ dường như có thời gian ngắn hơn một chút để đạt đến tình trạng cải thiện lâm sàng so với nhóm không được kê đơn. Nhóm dùng lopinavir-ritonavir cũng có thời gian phải nằm ở giường chăm sóc đặc biệt (ICU) ít hơn nhóm không dùng. Cuối cùng, 45,5% số bệnh nhân có dùng thuốc đã có dấu hiệu cải thiện lâm sàng vào ngày thứ 14 khi so sánh với chỉ 30.0% số không dùng thuốc (tỷ lệ khác biệt là 15,5%). Không có khác biệt nào đáng kể trong giai đoạn trở bệnh tiếp theo, bao gồm cả thời lượng sử dụng liệu pháp thở oxygen bằng máy và khoảng thời gian từ bất cứ giai đoạn bệnh lý ngẫu nhiên nào cho đến tử vong. Trong khi nhóm dùng lopinavir-ritonavir thường có nhiều biến chứng xấu nơi đường tiêu hóa (dạ dày – ruột), thì nhóm không sử dụng thuốc lại có các biến chứng bất lợi khác. Có tổng cộng 13 người trong nhóm dùng lopinavir-ritonavir phải ngưng điều trị vì các biến chứng xấu. Các nhà nghiên cứu còn báo cáo một số giới hạn về thực nghiệm, bao gồm cả sự thật rằng việc thử nghiệm thuốc đã không thể giấu bệnh nhân được. Ngoài ra, số bệnh nhân trong nhóm dùng lopinavir-ritonavir có tải lượng virus nơi dịch họng cao hơn số không dùng thuốc, và điều đó biểu hiện rằng các bệnh nhân này có thể có nhiều loạt virus tái tạo, và sự can thiệp nhiều loại dược lý đồng thời có thể đóng vai trò như một biến trung gian làm nhiễu loạn kết quả nghiên cứu (confounders). Xem:
Có vẻ Trung Quốc đã không hào hứng với lopinavir-ritonavir nữa rồi, dù chứng minh có tác dụng chữa SARS hồi năm 2003. Họ đã có kinh nghiệm thử thuốc qua dân số nhiễm bệnh rất lớn của mình, và chứng thực rõ ràng điều đó cho thế giới biết.
Nhưng có một thông tin đáng chú ý là vào ngày 10/3/2020, Ấn Độ đã sử dụng kết hợp lopinavir và ritonavir để chữa trị cho một cặp vợ chồng người Italy bị nhiễm Covid-19. Bs. S. Meena, chuyên viên điều hành y khoa của Bệnh viện SMS Hospital (Tp. Jaipur, bang Rajasthan), cho biết đã phải quyết định kê đơn kết hợp hai loại thuốc trên sau khi người đàn ông Italy và vợ ông ấy bắt đầu biểu hiện triệu chứng nghiêm trọng về hô hấp, phải thở oxygen bằng máy. Bản thân người đàn ông quốc tịch Italy lại là một bác sĩ, và trước khi bị nhiễm nCoV, ông ta đã có một số vấn đề liên quan đến hô hấp rồi (bệnh nền về hô hấp). Khi nhiễm bệnh, ông đột nhiên trở nặng, khó thở, và phải dùng các loại thuốc đặc trị này. Sau khi dùng lopinavir và ritonavir, tình trạng của ông đã ổn định lại, còn bà vợ thì đã hồi phục và còn có thể chăm sóc ngược lại cho chồng mình. Xem:
Thái Lan cũng đã dùng cặp thuốc trị HIV này trong điều trị nCoV. Và Việt Nam cũng có vẻ thích thú với liệu pháp dùng lopinavir và ritonavir. Hồi đầu tháng 2/2020, chính Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Chu Ngọc Anh đã phê duyệt bổ sung đề tài độc lập cấp nhà nước “Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của việc bổ sung lopinavir/ritonavir phối hợp trong điều trị người bệnh nhiễm virus corona mới”. Xem:
Dược chất cuối cùng mà tôi muốn đề cập đến chính là Remdesivir của hãng Gilead (Mỹ), được bào chế ra để chống dịch Ebola từ năm 2007 nhưng không thành công. Tuy nhiên, cùng với chloroquine, thuốc này lại được chính giới y khoa Trung Quốc xác nhận ngay từ cuối tháng 1/2020 là có hiệu quả ức chế 2019-nCoV, dù nghiên cứu trong ống nghiệm. Xem:
Remdesivir (số hiệu dược phẩm RDV, GS-5734) là một tiền chất nucleotide phổ rộng với hiệu lực được chứng minh trong phòng thí nghiệm, có thể chống lại một loạt virus chuỗi RNA. Cơ chế từng được thử nghiệm chống hoạt động của virus MERS-CoV dường như xuất phát từ việc tiêu diệt sớm quá trình sao chép của virus RNA như đã được chứng minh qua các thí nghiệm hóa sinh có sử dụng enzyme polymerases tái tổ hợp của các dòng virus gây bệnh Ebola, Nipah và NiV, và virus hợp bào gây bệnh đường hô hấp (RSV). Điều quan trọng nhất của Remdesivir là nó không gây độc tính quá cao cho tế bào vật chủ khi tấn công virus có chuỗi đơn ARN. Xem:
Đã có rất nhiều bàn luận về việc Trung Quốc ăn cắp bản quyền của hãng Gilead khi muốn độc lập sản xuất dược phẩm này trong lãnh thổ của mình. Sau đây là các phân tích của tôi để hy vọng làm rõ một số thông tin liên quan.
Tôi sẽ dùng một bản báo cáo khoa học do chính người Mỹ đăng trên Tạp chí Y khoa New England đã mô tả sơ qua về các thời điểm của case nhiễm nCoV đầu tiên ở Mỹ có sử dụng Remdesivir để điều trị. Xem:
Theo báo cáo khoa học này, vào ngày 19/1/2020, một người đàn ông 35 tuổi đã nhập viện cấp cứu tại Snohomish County, bang Washington, với biểu hiện triệu chứng 4 ngày ho và sốt. Ông này cho biết đã từ Vũ Hán (Trung Quốc) trở về Mỹ vào ngày 15/1/2020. Bệnh nhân nói rõ rằng ông đã xem thấy cảnh báo y tế từ CDC Mỹ về bùng phát dịch nCoV ở Trung Quốc, cũng như dựa trên triệu chứng và lịch sử đi lại gần đây của mình, nên quyết định đến khám sức khỏe và kiểm tra. Ngoài chứng mỡ trong máu cao, bệnh nhân không phải là người hút thuốc lá. Thông số kiểm tra tình trạng thể chất của bệnh nhân tại thời điểm nhập viện là: thân nhiệt 37.2°C, huyết áp 134/87 mmHg, mạch đập 110 nhịp/phút, tốc độ hô hấp 16 hơi/phút, lượng oxygen hòa tan trong máu 96%, và thở không khí môi trường bình thường. Ngày 20/1/2020, CDC Mỹ xác nhận dịch quết vòm họng và mũi bệnh nhân dương tính với nCoV bằng kỹ thuật xét nghiệm rRT-PCR. Ngay sau đó, bệnh nhân được đưa vào đơn vị cách li đặc biệt để theo dõi. Vào ngày thứ 2 trong 5 ngày nhập viện (tức ngày thứ 6 trong 9 ngày ngã bệnh), tình trạng sức khỏe của bệnh nhân vẫn ổn định, ngoài việc sốt cách quãng kèm theo các giai đoạn mạch đập nhanh. Bệnh nhân tiếp tục cho thấy không gia tăng triệu chứng ho, nhưng dường như mệt mỏi. Vào buổi chiều của ngày nhập viện thứ 2 (tức là chiều ngày 20/1/2020), bệnh nhân đi phân lỏng và thông báo mình hơi khó chịu ở trong bụng. Đêm hôm đó, bệnh nhân tiếp tục đi phân lỏng; người ta đã lấy mẫu phân và đem xét nghiệm rRT-PCR, cùng với mẫu quết từ vòng họng mụ và huyết tương. Sau đó, mẫu phân và dịch nơi đường hô hấp có kết quả dương tính với 2019-nCoV, trong khi huyết tương thì vẫn còn âm tính.
Việc điều trị lúc này phần lớn để nâng sức bệnh nhân và chữa triệu chứng. Để kiểm soát triệu chứng, bệnh nhân đã được kê đơn thuốc hạ nhiệt bao gồm 650 mg acetaminophen mỗi 4 giờ và 600 mg ibuprofen mỗi 6 giờ. Ông cũng được cho uống 600 mg guaifenesin (một loại biệt dược có tác dụng tan đờm, thúc đẩy loại bỏ chất nhầy đường hô hấp) vì tiếp tục ho và được tiếp khoảng 6 lít dung dịch muối đẳng trương trong 6 ngày đầu tiên nhập viện. Việc xét nghiệm thành phần máu và huyết tương chỉ bắt đầu từ ngày thứ 3 sau nhập viện. Kết quả xét nghiệm vào ngày thứ 3 và thứ 5 sau nhập viện (tức là ngày thứ 7 và thứ 9 kể từ khi ngã bệnh) cho thấy có tình trạng giảm bạch huyết cầu (leukopenia), giảm lượng tiểu cầu nhẹ, và gia tăng enzyme creatine kinase (một enzym quan trọng giúp tế bào điều tiết việc tiêu thụ ATP – adenosin triphosphat. Xét nghiệm máu để kiểm tra mức creatine kinase có thể cho thấy nếu có tổn thương ở tim, cơ xương, não và đôi khi là các bộ phận khác của cơ thể.). Ngoài ra, còn có một sự thay đổi về chức năng gan: hàm lượng các chất alkaline phosphatase (68 U/lít), alanine aminotransferase (105 U/lít), aspartate aminotransferase (77 U/lít), và lactate dehydrogenase (465 U/lít) đều gia tăng trong ngày thứ 5 nhập viện.
Việc chụp x-quang ngực bệnh nhân được tiến hành vào ngày nhập viện thứ 3 (tức là ngày ngã bệnh thứ 7), cho thấy không có nhiều chứng cứ viêm nhiễm hay bất thường nào ở phổi. Tuy nhiên, khi chụp x-quang lần thứ hai vào đêm của ngày thứ 5 nhập viện (tức là ngày thứ 9 ngã bệnh), thì chứng cứ viêm phổi đã xuất hiện ở thùy dưới của phổi trái. Các bản chụp này trùng khớp với hiện tượng thay đổi trạng thái hô hấp của bệnh nhân, bắt đầu từ buổi tối của ngày nhập viện thứ 5, lúc trị số lượng oxygen trong máu giảm 90% khi bệnh nhân thở không khí môi trường bình thường. Vào ngày thứ 6 kể từ lúc nhập viện (tức là ngày 24/1/2020), bệnh nhân bắt đầu cần trợ giúp thở oxygen, thông qua hai ống dò đặt ở mũi với liều lượng 2 lít/phút. Trước tình trạng thay đổi triệu chứng lâm sàng và mối quan tâm về chứng viêm phổi như thế, người ta đã bắt đầu chữa trị bằng vancomycin – một loại kháng sinh liều cao chống các bệnh nhiễm khuẩn nghiêm trọng – với một liều nạp 1.750-mg cùng với 1g truyền tĩnh mạch trong mỗi 8 giờ, và bằng cefepime – một loại kháng sinh họ betalactamin – bằng cách tiêm tĩnh mạch mỗi 8 giờ.
Vào ngày thứ 6 sau nhập viện (tức là ngày thứ 10 kể từ lúc ngã bệnh), bản chụp phim phổi thứ tư cho thấy các khu vực mờ đục ở đáy cả hai lá phổi, và đây là dấu hiệu giống với chứng viêm phổi bất thường. Bác sĩ còn nghe thấy tiếng ran phổi (rales) – âm thanh của phổi xuất phát từ sự di chuyển dịch hoặc chất xuất tiết trong khí đạo – ở cả hai lá phổi khi thăm bệnh. Dựa trên các chứng cứ chụp x-quang, quyết định phải cho bệnh nhân thở máy, tình trạng sốt liên tục của bệnh nhân, xét nghiệm dương tính đối với RNA của virus 2019-nCoV ở nhiều vị trí trong cơ thể bệnh nhân, và quá trình phát triển chứng viêm phổi nghiêm trọng ở bệnh nhân, các bác sĩ đã quyết định theo đuổi một liệu pháp chống virus cuối cùng – “được ăn cả, ngã về không” (compassionate use). Họ bắt đầu truyền tĩnh mạch thuốc Remdesivir (một tiền chất nucleotide analogue mới) vào buổi tối ngày thứ 7 kể từ lúc nhập viện (tức là ngày 25/1/2020), và quan sát thấy không có dấu hiệu xấu đi kể từ lúc tiêm truyền thuốc này. Họ cũng ngưng sử dụng Vancomycin vào buổi tối ngày hôm đó, và ngưng truyền Cefepime vào ngày hôm sau, sau khi xét nghiệm thấy một loạt mức độ âm tính procalcitonin (một tiền chất của hormon calcitonin) và âm tính PCR mũi đối với khuẩn tụ cầu Staphylococcus aureus kháng methicillin.
Vào ngày thứ 8 sau nhập viện (tức là ngày thứ 12 kể từ lúc ngã bệnh – theo lịch là ngày 26/1/2020), tình trạng lâm sàng của bệnh nhân được cải thiện khá nhiều. Bác sĩ ngưng cho thở máy, và lượng oxygen trong máu tăng lên 94 – 96% dù thở bình thường. Các tiếng ran trong phổi ở thùy dưới đã không còn nữa. Bệnh nhân cũng ăn uống được trở lại, và ông dần mất hẳn các triệu chứng bệnh ngoài việc ho ngắt quãng và chảy dịch mũi (rhinorrhea). Vào ngày 30/1/2020, bệnh nhân vẫn còn nằm trong bệnh viện, nhưng ông đã hết sốt và tất cả các triệu chứng đều được chữa khỏi ngoại trừ việc ho, nhưng cũng từ từ bớt đi.
Đặc biệt, chúng ta nên chú ý đến đoạn sau của bài báo cáo:
Việc phát hiện mẫu RNA của virus 2019-nCoV trong các bệnh phẩm lấy từ đường hô hấp trên với liều lượng Ct thấp vào ngày thứ 4 và ngày thứ 7 sau khi ngã bệnh cho thấy có những lượng tải virus khá cao và có tiềm năng lây lan bệnh. Cần phải lưu ý rằng chúng tôi cũng phát hiện RNA của virus 2019-nCoV ở trong mẫu phân được thu thập vào ngày thứ 7 sau ngã bệnh. Mặc dù các mẫu huyết tương từ case bệnh này liên tục cho kết quả âm tính đối với 2019-nCoV, Trung Quốc lại đã phát hiện RNA của virus ở trong máu của các bệnh nhân nguy kịch. Tuy nhiên, việc phát hiện RNA của virus ở ngoài phổi không nhất thiết có ý nghĩa rằng virus khiến lây lan bệnh có mặt ở những nơi đó, và ý nghĩa lâm sàng của việc phát hiện RNA của virus bên ngoài đường hô hấp chưa được biết rõ tại thời điểm này.
Hiện tại, hiểu biết của chúng tôi về phạm vi lâm sàng của bệnh lây nhiễm từ 2019-nCoV vẫn còn rất hạn chế. Các biến chứng như viêm phổi nặng, không hô hấp được, hội chứng kiệt quệ hô hấp cấp tính (ARDS), và gây hại cho tim, bao gồm cả tử vong, đều được phía Trung Quốc thông báo. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần lưu ý rằng các case bệnh này đều được xác định trên nền tảng của chẩn đoán viêm phổi và do đó có thể chênh lệch về các biến chứng nguy kịch sau đó.
Ban đầu, case bệnh của chúng tôi có biểu hiện ho nhẹ và sốt cắt quãng ở mức độ thấp, mà không có chứng cứ viêm phổi trên hình chụp x-quang ngực vào ngày thứ 4 kể từ lúc ngã bệnh, trước khi bệnh nhân trên tiến trình biểu hiện bệnh lý viêm phổi trong những ngày tiếp theo. Các dấu hiệu và triệu chứng bệnh lý nhẹ không đáng kể này trong quá trình diễn biến lâm sàng của việc nhiễm 2019-nCoV có thể không phân biệt được về mặt lâm sàng đối với các loại bệnh truyền nhiễm thông thường khác, đặc biệt là trong suốt mùa đông, khi mà virus dễ tấn công đường hô hấp. Ngoài ra, thời điểm mà case bệnh của chúng tôi tiến tới chứng viêm phổi vào ngày thứ 9 ngã bệnh thì tương thích với sự khởi đầu sau đó của chứng khó thở (dyspnea) (ở mức trung bình của 8 ngày kể từ lúc khởi phát bệnh) và đã được báo cáo trong một công bố khoa học gần đây. Mặc dù quyết định kê đơn remdesivir để sử dụng như một liệu pháp ăn may cuối cùng (compassionate use) đã được dựa trên tình trạng lâm sàng ngày càng xấu đi của bệnh nhân, chúng ta sẽ cần các thủ nghiệm ngẫu nhiên có kiểm chứng khác để xác định sự an toàn và dược lực của remdesivir và bất cứ tác nhân được kiểm nghiệm có liên quan đến việc trị liệu bệnh nhân nhiễm 2019-nCoV.
Như vậy, case bệnh nCoV đầu tiên của Mỹ nhập viện vào ngày 19/1/2020 ở thể trạng còn khá tốt và chưa có nhiều triệu chứng. Sau khi cố gắng chữa bằng các loại kháng sinh liều cao nhưng thất bại, họ đã phải dùng liệu pháp cuối cùng là tiêm truyền remdesivir vào buổi tối ngày 25/1/2020, và chỉ một ngày sau đó, tức là ngày 26/1/2020, tình trạng bệnh nhân đã có tiến triển phục hồi tốt. Tin tức về thử nghiệm và tính hiệu quả của remdesivir chỉ có thể bắt đầu được loan truyền sau ngày 26/1/2020. Nhưng vì nước Mỹ chỉ có một case đầu tiên để thử nghiệm, nên chắc chắn họ không cảm thấy tự tin về loại thuốc này (Remdesivir), mức độ an toàn của nó, cũng như liệu đã có bất cứ tác nhân nào khác tác động đến tình trạng của bệnh nhân sau khi dùng hai loại thuốc trước đó là Vancomycin và Cefepime trong 02 ngày thứ 6 và thứ 7 kể từ lúc nhập viện. Ngoài ra, remdesivir đã được chứng minh là không có hiệu quả trong việc chữa trị bệnh Ebola – là căn bệnh mục tiêu chính mà nó được bào chế ra để đối phó nên người Mỹ chưa cảm thấy tự tin với Remdesivir.
Tờ New York Times có đăng những nội dung chứng minh rằng, hãng dược phẩm Gilead đã có những kết nối với chính quyền Trung Quốc để thử nghiệm thuốc ngay sau đó. Xem:
Theo bài báo trên, Ryan McKeel – phát ngôn viên của Gilead – đã viết trong một email như sau:
Điều quan trọng cần phải lưu ý rằng đây là một dược phẩm đang thử nghiệm, đã chỉ được áp dụng trên một số lượng nhỏ bệnh nhân 2019-nCoV cho đến ngày hôm nay. Vậy nên chúng ta không có sự hiểu biết thiết thực thỏa đáng về hiệu quả của loại thuốc này để bảo đảm cho việc sử dụng rộng khắp vào lúc này. Sẽ có hai đợt thử lâm sàng về loại thuốc này ở trung tâm bùng phát dịch Vũ Hán (Trung Quốc); 500 bệnh nhân sẽ nhận thuốc, và các nhóm đối chiếu sẽ nhận giả dược.
Vâng, hãng dược phẩm Mỹ đã đưa thuốc cho người Trung Quốc thử nghiệm vì nhiều lý do, mà tôi hiểu rằng lý do quan trọng nhất là chứng thực dược tính và dược lực của Remdesivir càng sớm càng tốt để hy vọng có được một loại thuốc duy nhất có khả năng chữa trị căn bệnh này. Hãng Gilead cũng mong rằng điều đó sẽ đem lại lợi ích cho mình – nhất là về phương diện kinh doanh, khi mà đột nhiên Remdesivir, một loại thuốc thất bại sau khi đổ công sức bào chế để chống dịch Ebola, thì nay đột nhiên lại dường như có tác dụng đối với 2019-nCoV. Người Mỹ muốn chính quyền Trung Quốc thử nghiệm trên dân của họ – như những con chuột bạch – mà không phải thông qua các bước tiêu chuẩn về xác định dược tính lâm sàng đối với phương pháp trị liệu một căn bệnh mới (như quy định của FDA chẳng hạn). Nên nhớ rằng, việc kê đơn cho bệnh nhân số 1 của Mỹ tại Washington là được FDA thông qua như một “compassionate use” – liệu pháp cuối cùng để cứu mạng bệnh nhân và dùng loại thuốc chưa qua chứng thực với đủ kinh nghiệm lâm sàng. Và New York Times còn đưa tin ngay từ ngày 6/2/2020 rằng Gilead đang lên kế hoạch đẩy mạnh sản xuất Remdesivir và tìm kiếm “các đối tác sản xuất ở nhiều khu vực địa lý khác nhau.” Đó là điều mà người phát ngôn viên McKeel đã nói, khi còn cho biết thêm rằng Gilead đã triển khai các chuẩn bị cho sản xuất thuốc mà chưa chắc chắn rằng liệu loại thuốc này có hoạt động chống lại chủng coronavirus mới hay không. Họ chỉ mới thử trên 1 người ở Mỹ, và đang lên kế hoạch thử trên 500 người ở Trung Quốc, nhưng đã vội vã đẩy nhanh tiến độ sản xuất rồi. Đó chính xác là mindset kinh doanh của người Mỹ.
Còn việc thử nghiệm remdesivir ở Trung Quốc được ghi nhận rất rõ trên trang web ClinicalTrials.gov của Viện Nghiên cứu Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (NIH), tại đây:
Đã có hai cuộc thử nghiệm trên bệnh nhân nguy kịch và bệnh nhân có triệu chứng nhẹ tại Trung Quốc vào ngày 6/2/2020, nhưng trên website của ClinicalTrials không có ghi hiệu quả của các đợt thử nghiệm. Điều đó cho thấy phía Trung Quốc không công bố quá nhiều thông tin về hiệu lực thuốc cho phía Hoa Kỳ. Nhưng trước khi hai cuộc thử nghiệm này diễn ra, phía Trung Quốc đã cẩn thận hết mức và bắt buộc kiểm tra dược tính của Remdesivir trên tế bào virus nCoV nuôi cấy trong phòng thí nghiệm và qua ống nghiệm. Ngay từ ngày 4/2/2020, trước hai đợt cho phép thử nghiệm trên người, giới y khoa Trung Quốc đã công bố kết quả về bước kiểm tra trong phòng thí nghiệm này trên Tạp chí Nature – cùng lúc với Chloroquine, một dược chất khác như đã đề cập ở trên. Cả hai đều cho thấy sự tích cực trong việc ức chế virus 2019-nCoV. Xem:
Thậm chí – một lần nữa tôi nhắc lại trong nghiên cứu này của phía Trung Quốc, rằng Chloroquine còn hiệu quả hơn Remdesivir vì ít gây độc tế bào nhiều bằng Remdesivir.
Sau đó, điều phức tạp đã xảy ra, khi Viện Virus Học Vũ Hán đưa ra thông cáo cho biết rằng họ đã “sáng chế” ra việc phát hiện Remdesivir có thể chữa trị được 2019-nCoV và cầu chứng để “bảo vệ quyền lợi quốc gia theo thủ tục quốc tế” như nói trên. Dưới đây là tuyên bố chính thức của họ về “bằng sáng chế” này:
Có những lý do Trung Quốc đưa ra để tranh cãi cho việc này. Một trong những lý do chính là Trung Quốc phải bỏ công xét nghiệm, thử nghiệm trên mẫu bệnh phẩm (được công bố trên bài báo ở Tạp chí Nature ở trên), và thử nghiệm trên người dân với số lượng lớn case nhiễm bệnh. Hai là phía Trung Quốc nói rằng cầu chứng trước đó của Gilead tại Trung Quốc vào năm 2016 cho các liệu pháp chữa trị ca bệnh nhiễm coronavirus không hề có nhắc đến Remdesivir. Xem cầu chứng của Gilead dưới đây trên WIPO (Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới):
Nhưng Gilead phản đối bằng cách trưng ra các khám phá khoa học đối với hiệu quả chữa trị của remdesivir đối với các chủng coronavirus, đã từng được xuất bản trên Tạp chí Science Translational Medicine vào tháng 6/2017 về việc dược phẩm này, được phát triển dưới cái mã tên GS-5734, có khả năng ức chế các loài coronavirus gây dịch bệnh ở người và lây lan từ thú vật qua người. Rõ ràng là phía Trung Quốc đã chơi bẩn, nhưng họ phải làm thế vì biết rằng đó có thể là một trong những cách để bảo vệ quyền lợi thử nghiệm remdesivir trên chính dân của mình. Bước đầu tiên này về cầu chứng “bằng sáng chế” của Trung Quốc có thể ép Gilead có những nhượng bộ sau đó về việc cho phép sản xuất dược phẩm này mà không quá đặt vấn đề thu lợi nhuận (chúng ta đều biết ngành tư bản dược phẩm đã làm giàu như thế nào qua việc bào chế thuốc). Đó như một cách để “giữ chỗ” và “tạo sức ép” khi mà người Trung Quốc cần bảo đảm được công nhận có phần đóng góp của chính mình khi chấp nhận thử nghiệm remdesivir trên người dân. Ngoài ra, việc đó còn giúp quốc gia Trung Quốc có thêm một loại thuốc tiềm năng để chữa trị dịch nCoV cho người dân (lợi ích dân tộc), nhờ các thỏa thuận và đàm phán công bằng cho cả phía Trung Quốc và Gilead.
Xem phân tích tại đây để hiểu vấn đề:
Thế rồi, như tôi đã phân tích, sau các thỏa thuận bên trong nội bộ, vào ngày 27/2/2020, chính quyền Trung Quốc đã nhượng bộ và cấp 3 bằng sáng chế cho Gilead về dược phẩm Remdesivir ở ngay tại quốc gia mình. Họ đã không cấp quyền cho Viện Virus Học Vũ Hán nữa – như một bước lùi, tương tự như việc Gilead không có bất cứ ý kiến gì nhiều về chuyện đăng ký “bằng sáng chế” của Trung Quốc. Xem:
Tuy nhiên, cho đến bây giờ, số phận của thuốc Remdesivir vẫn chưa được thông qua bởi bất cứ quốc gia nào trên toàn cầu về dược tính chữa trị hiệu quả đại dịch SARS-CoV-2. Ngay cả Hoa Kỳ hay phía Trung Quốc cũng thế. Trong khi đó, Trung Quốc lại đã công bố Favilavir là thuốc chính thức để chữa nCoV trên toàn quốc gia của họ. Ngoài ra, đã có những chứng cứ từ phía giới y khoa Pháp cho thấy chloroquine và hydroxychloroquine có các hiệu quả tốt trong tiến trình điều trị bệnh nhân nhiễm nCoV.
Các câu chuyện thêu dệt xung quanh việc người Trung Quốc cố tình ăn cắp bản quyền Remdesivir và làm quá mức độ phê phán việc này chỉ nhằm phục vụ mục đích chính trị mà thôi.
Nhưng chắc chắn người Mỹ đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng Remdesivir trên các case bệnh của chính họ (vì giờ đây do sự bất tài của Tổng thống Donald Trump, số case nhiễm nCoV tại nước Mỹ đang cất cánh thẳng đứng). Ngày 22/3/2020, FDA nói đã cho phép thử dùng thuốc này trên 250 bệnh nhân, vẫn dưới hình thức “compassionate use” – liệu pháp bất khả kháng cuối cùng để cứu mạng bệnh nhân. Xem:
Ở Mỹ đã có ít nhất thêm một case nhiễm bệnh nCoV được chữa khỏi bằng Remdesivir. Xem:
Một bệnh nhân 79 tuổi ở Italy cũng được thoát chết nhờ Remdesivir. Xem:
Ngày 3/3/2020, có một tin từ CNA cho thấy hai nhóm nghiên cứu tại Đài Loan đã bắt đầu tổng hợp thành công Remdesivir, và dĩ nhiên dưới sự hướng dẫn của Gilead. Đây cũng có thể là một trong những bước để tập đoàn dược phẩm này có thể tấn công vào thị trường khổng lồ Trung Quốc, sau một vài nhượng bộ và trục trặc với quốc gia này. Chắc chắn họ sẽ không bỏ lỡ miếng mồi béo bở để thu lợi nhuận ở Trung Quốc và khu vực Đông Á. Xem:
Sau khi nỗ lực phân tích và liệt kê một số dược phẩm chính yếu mà thế giới đang trông mong sẽ chữa được phần nào căn bệnh và ngăn chặn bớt đại dịch nCoV, tôi chỉ muốn nói rằng, chắc chắn thế giới sẽ còn phải tìm hiểu và học theo cách làm của Trung Quốc trong nhiều ngày tới. Mỹ và phương Tây đã quá chủ quan trong việc chống dịch và đã thất bại trong những bước đầu tiên ngăn chặn bùng phát dịch. Họ xem trọng tiền bạc và nền kinh tế hơn, nên họ sẽ gánh chịu thương đau thậm chí nhiều hơn cả Trung Quốc. Trung Quốc khi cắt đi các chuyến bay và ngưng chuỗi sản xuất công nghiệp của mình thì chỉ bị tổn thương về kinh tế nội địa và nguồn thu ngoại tệ nhờ sản xuất giùm người khác, nhưng Mỹ và phương Tây sẽ bị tổn thương trầm trọng cả nguồn hàng nội địa lẫn các mối quan hệ giao thương trên bình diện quốc tế. Nhưng lòng tham của con người thì rất khó nói trước. Tập Cận Bình vẫn tỏ ra kiêu ngạo và đang tìm cách vực dậy nền kinh tế, cũng như các ảnh hưởng của mình trên bình diện quốc tế – sau khi đã tạm thời chặn dịch thành công ở Vũ Hán. Điều này tôi cũng đã dự báo trước trong bài:
Thật ra, tất cả những loại thuốc mà tôi nêu trên chỉ là để chữa triệu chứng và tạm thời được sử dụng khi bất cứ quốc gia nào bị vỡ trận và trở nên tuyệt vọng. Họ bắt buộc phải sử dụng để cứu chữa những case bệnh nguy kịch, giảm bớt con số tử vong và tránh cho hệ thống y tế sụp đổ thêm. Dược lực của các loại thuốc này còn tùy thuộc vào tình trạng hệ miễn dịch của con người, lịch sử bệnh nền và nếp sống ở từng vị trí địa lý nhất định. Trong khi đó, do lối sống công nghiệp và ăn chơi buông thả, loài người ngày càng tàn phá cơ thể của mình bởi bia, rượu, thuốc lá, thuốc kháng sinh, sa đà làm việc, mất ngủ và không tập thể dục… Khi gặp một chủng virus mới, chúng ta không thể chống lại vì hệ miễn dịch đã quá yếu và bị tổn hại dài lâu vì các yếu tố đó. Các loại bệnh của thời đại và nhà giàu như béo phì, tiểu đường, suy thận, cao huyết áp, viêm gan siêu vi… đã tấn công cơ thể và làm suy yếu hệ miễn dịch trước khi virus nCoV tấn công.
Riêng về phía mình, tôi vẫn ước mong cho giới y khoa chứng minh được chloroquine và azythromycine có thể được dùng để chữa trị hiệu quả nCoV (vì đây là các loại thuốc rẻ và sẵn có – không phải mua bản quyền của các tập đoàn dược hút máu – nên tốt cho bất cứ quốc gia đang phát triển và người dân nghèo nào). Tuy nhiên, các bạn cũng đừng tự ý mua hay trữ những thứ thuốc mà tôi nêu trên ở trong nhà, đừng tự ý uống để phòng hoặc chữa bệnh. Điều đó rất nguy hiểm, vì mỗi loại thuốc đặc trị luôn phụ thuộc vào phác đồ điều trị và liều dùng. Các loại thuốc cũng cần được bác sĩ hướng dẫn kê toa, vì nếu uống quá liều thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Hiện cũng đang có một loại thuốc mới được thử nghiệm tại Italy và có nhiều hứa hẹn – là Tocilizumab (Actemra), do hai tập đoàn dược phẩm là Hoffmann–La Roche (Thụy Sĩ) and Chugai (Nhật Bản) bào chế vào năm 2017. Đây là một biệt dược ức chế miễn dịch, chủ yếu để chữa trị bệnh viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis) và viêm khớp tự phát hệ thống ở thanh thiếu niên (systemic juvenile idiopathic arthritis). Hóa ra, đây là một loại kháng thể đơn dòng “nhân hóa” (humanized monoclonal antibody) để chống lại thụ thể interleukin-6 (IL-6R). Interleukin 6 (IL-6) là một cytokine gây viêm và đóng vai trò quan trọng trong phản ứng của hệ miễn dịch. Phần lớn những người viêm phổi chết cũng là do phản ứng của cytokine tạo ra những cơn bão của hệ miễn dịch, tiêu diệt cả tế bào khỏe mạnh trong lúc tấn công virus, và khiến phổi và màng phổi bị tràn dịch tế bào chết, làm cho tình trạng viêm nhiễm lan rộng, khiến người bệnh ngạt thở và chết. Đây có thể là một hướng đi mới, ức chế bớt phản ứng của hệ miễn dịch trong khi dùng các loại thuốc kháng sinh khác để tiêu diệt virus. Hiện Tocilizumab (Actemra) đang được thử nghiệm giai đoạn 3 ở Mỹ và Tập đoàn Roche cũng đang tìm kiếm sự ủng hộ của chính phủ Trung Quốc để bắt đầu thử nghiệm. Họ cũng đang làm giống hệt Gilead hồi trước mà thôi.
Cuộc chạy đua tìm kiếm thuốc chữa và vaccine phòng dịch nCoV sẽ là rất gay cấn và phức tạp. Ai tìm ra được thì sẽ giàu to và thu được nhiều lợi nhuận. Nhưng giữa cuộc đua ấy, các quốc gia vẫn sẽ cố gắng tìm cho mình những phương thức rẻ tiền và phù hợp nhất để chữa trị căn bệnh. Tất cả chỉ vì lợi ích của người dân trong nước, cũng như giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế và cách li sinh hoạt xã hội. Loài người vẫn như vậy, trước và có thể cả sau khi đại dịch nCoV xảy ra. Họ vẫn sẽ cố lợi dụng một cuộc khủng hoảng để kiếm tiền và làm giàu, từ chuyện cái khẩu trang bé tí, nước rửa tay sát khuẩn, cho đến vấn đề lớn hơn như lương thực cứu trợ, thuốc men và vaccine.
Và từ bây giờ, sẽ có rất nhiều cuộc khủng hoảng khác xảy ra. Đại dịch coronavirus chỉ là một cuộc khủng hoảng nhỏ mà thôi. Biến đổi khí hậu và sự sụp đổ môi trường sống mới là mối đe dọa thực sự dành cho loài người.
Cuối cùng, để biết thực sự một tập đoàn nào đó sắp thành công trong việc điều chế hoặc sản xuất thuốc/vaccine, thì nên nhìn vào chỉ số chứng khoán của họ. Ví dụ như, để biết Moderna có thành công trong việc thử vaccine mRNA-1273 vào ngày 16/3/2020 hay không (chuyện này được ca tụng vang trời ở Việt Nam), thì cứ xem chỉ số chứng khoán MRNA trên NASDAQ mấy hôm nay, tại:
Để biết Remdesivir có cơ may trở thành một loại thuốc chính thức để chống dịch nCoV hay không, hãy kiểm tra chỉ số chứng khoán GILD trên NASDAQ tại:
Tôi nghĩ rằng phải ít nhất đến mùa thu năm nay, thế giới mới có vaccine để chống dịch nCoV. Đó là điều may mắn, trước khi chúng ta lại chứng kiến sự quay trở lại của một đợt lây nhiễm mới – kinh khủng hơn, tàn khốc hơn, rộng lớn hơn, độc địa hơn, vì nguy cơ coronavirus biến chủng.
Với chỉ 46.500 VND (2 USD) hàng tháng – tương đương giá trị của 1 bát phở, bạn có thể giúp chúng tôi đem tin tức mới nhất về cuộc khủng hoảng Biến đổi Khí hậu và sụp đổ Hệ Sinh Thái đến cho cộng đồng Việt Nam. Chúng tôi thậm chí còn đang tìm ra những cách để tư vấn và thông tin cho người dân Việt Nam về các phương thức giúp dân tộc chúng ta thay đổi và sống sót trong kỷ nguyên Biến đổi Khí hậu.
[wpforms id=”2628″]
Phần chia sẻ ý kiến
[…] ra, như đã viết trong một bài nhận định TỔNG QUAN VỀ CÁC LOẠI THUỐC CHỮA TRỊ TẠM THỜI NCOV, tôi đã đặt Remdesivir xuống cuối bảng danh sách. Trong năm 2020 vừa qua, ngành y […]