DỊCH CÚM NĂM 1918 ĐÃ LAN RA TOÀN NƯỚC MỸ NHƯ THẾ NÀO
CNN mấy ngày trước có đặt ra vấn đề về chính sách của nước Mỹ trước nguy cơ đại dịch 2019-nCoV. Họ trích dẫn bài học lịch sử từ trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 – một...
Lọc theo mục lục
CNN mấy ngày trước có đặt ra vấn đề về chính sách của nước Mỹ trước nguy cơ đại dịch 2019-nCoV. Họ trích dẫn bài học lịch sử từ trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 – một...
Có 4 nguyên tắc mà các chính phủ cần chuẩn bị cho một đại dịch có thể xảy ra trong tương lai: Nguyên tắc số 1: Cần phải cách li và phong tỏa người dân để tránh dịch lan ra, giữ...
Ngày hôm qua (21/2/2020), New York Times có bài nhận định 13.000 chuyến bay quốc tế và quốc nội đã bị CoronaVirus cắt mất khỏi không phận Trung Quốc trong một tháng vừa qua. Ngành...
Chúng ta mua những thứ chúng ta không cần, với tiền bạc chúng ta chưa sở hữu [nhờ cơ chế vay mượn tín dụng ngân hàng], để gây ấn tượng với đám đông chúng ta không ưa. Ồ, con người...
Có người comment dưới status của tôi thế này: “Nếu kinh tế Trung Quốc bị suy yếu bởi dịch 2019-nCoV, thì Việt Nam mới chính là thị trường bị tác động nặng nề nhất mới phải,...
Những bộ xương cá sấu, có độ tuổi cách đây 50 triệu năm, đã lộ ra trên hòn đảo Ellesmere thuộc khu vực Nam Cực, và đó chính là vấn đề gây nhức óc giới nghiên cứu. Các nhà khoa học...
Nhiệt độ toàn cầu tăng và nước biển ấm lên đang khiến một trong những nơi lạnh nhất thế giới tan chảy. Mặc dù biết rằng hoạt động của con người đang gây ra biến đổi khí hậu và dẫn...
Tôi nêu ra ở đây hai bài báo nghe có vẻ chẳng ăn nhập gì với nhau: 1. Hôm qua (17/2/2020), New York Times đưa tin Apple trở thành một trong những công ty đầu tiên tiết lộ rằng...
Carbon monoxide (CO) và bụi mịn PM 2.5 là những tác nhân gây ô nhiễm không khí với 2 điểm chung như sau: Đều được sinh ra khi nhiên liệu bị đốt cháy, từ nguồn tự nhiên như cháy...
Cuối tháng 1/2020 vừa qua, một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu vùng cực, kết hợp giữa Đại học New York (Mỹ) và Đoàn thám hiểm Nam Cực của Anh (British Antarctic Survey) –...
CNN mấy ngày trước có đặt ra vấn đề về chính sách của nước Mỹ trước nguy cơ đại dịch 2019-nCoV. Họ trích dẫn bài học lịch sử từ trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 – một bài học lịch sử mà không phải người Mỹ nào cũng biết và nhận ra, từ bài viết của Nhà Sử học John M. Barry.
Các bạn có thể xem bản gốc của bài viết này trên Tạp chí Smithsonian tại:
Tôi không có thời gian để dịch nguyên bản bài viết này, nhưng thấy nó cần thiết nên tóm gọn các nội dung chính như sau:
1. Đại dịch cúm Tây Ban Nha bắt đầu bùng phát ở nước Mỹ từ Hạt Haskell County, bang Kansas, vào tháng 1/1918. Hạt này là một vùng nông thôn nghèo, chuyên nuôi gia súc và heo, lại nằm dưới đường bay di cư của 17 chủng loài chim. Giới khoa học hiện nay đã biết rằng virus cúm ở chim, cũng giống như virus cúm ở người, cũng có thể lây truyền cho lợn, và khi một chủng virus ở chim và một chủng virus ở người cùng lây nhiễm vào một tế bào ở lợn, các gene khác nhau của chúng có thể hòa trộn và trao đổi giống như chơi đánh bài, khiến một chủng virus mới xuất hiện, mà đặc biệt có lẽ nguy hiểm và dễ gây chết người hơn.
Nhiều ca bệnh đầu tiên xuất hiện ở Haskell County, rồi sau đó lan ra Trại quân đội Camp Funston ở trung tâm bang Kansas vào ngày 4/3/1918 – một căn cứ quân sự khổng lồ chuyên huấn luyện cho nhiều binh sĩ Mỹ tham gia Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Sau đó, các binh sĩ này lại mang mầm bệnh đến các trại huấn luyện khác trên toàn nước Mỹ, và lây cho cộng đồng dân cư. Mặc dù một số nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ cứ nghĩ rằng trận đại dịch năm 1918 bắt đầu ở nơi nào khác trên thế giới chứ không phải ở chính quốc gia này, ví dụ như ở Pháp năm 1916 hoặc ở Trung Quốc và Việt Nam năm 1917, nhưng thật ra, có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc phát bệnh và lây lan nằm tại chính nước Mỹ. Macfarlane Burnet – nhà nghiên cứu dịch tễ học người Úc và là người đã đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa (năm 1960), chuyên dành cả sự nghiệp của mình để nghiên cứu bệnh cúm, đã kết luận rằng có bằng chứng “rất mạnh mẽ gợi ý” căn bệnh đã khởi đầu từ Mỹ và lan đến Pháp nhờ “các đội quân Hoa Kỳ.”
2. Virus cúm ngày đó đã đột biến nhanh chóng, thay đổi đủ để hệ miễn dịch con người không thể nhận ra được để tấn công nó từ mùa này đến mùa khác. Trận đại dịch xảy ra khi một chủng virus cúm hoàn toàn mới xuất hiện, xâm nhập và lan vào cộng đồng dân cư. Không giống như virus cúm mùa thông thường chỉ xâm nhập các tế bào nơi đường hô hấp trên, như mũi và cổ họng chẳng hạn, chủng virus mới còn có khả năng thâm nhập sâu vào đáy phổi, phá hủy các tế bào phổi, lan ra qua hơi thở và gây chứng viêm phổi nặng nề.
Trận dịch bùng phát trong chỉ 15 tháng nhưng lại tạo ra con số tử vong lớn nhất lịch sử loài người, giết chết từ 50 đến 100 triệu người trên toàn cầu, trong đó có 670.000 người Mỹ. Chỉ trong vòng hơn 1 năm, cúm Tây Ban Nha lấy đi số mạng sống còn nhiều hơn căn bệnh AIDS đã làm trong 40 năm qua và nhiều hơn cả căn bệnh dịch hạch trong cả 1 thế kỷ thời Trung Cổ.
3. Đợt lây nhiễm ban đầu, mặc dù có tốc độ lan nhanh khiến nhiều người bị nhiễm, nhưng dịch không gây chết người nhiều lắm.
Chẳng hạn như các bác sĩ ở Hạm đội Grand Fleet của Anh báo cáo 10.313 thủy thủ bị nhiễm bệnh vào tháng 5 và tháng 6/1918, nhưng chỉ có 4 người chết. Căn bệnh cũng tấn công các quân đoàn của hai chiến tuyến ở Pháp vào tháng 4/1918, nhưng binh lính gọi nhầm nó thành “chứng cảm cúm 3 ngày”. Dịch bệnh chỉ gây chú ý khi nó lan qua Tây Ban Nha, khiến ngay cả nhà vua quốc gia này cũng bị nhiễm, và khi đó, báo chí Tây Ban Nha tự do hơn vì là một đất nước không tham gia cuộc chiến, đã có thể viết mô tả chi tiết về căn bệnh, chứ không bị kiểm duyệt bởi các nước đang tham gia cuộc chiến tranh thế giới lúc bấy giờ, bao gồm cả Mỹ. Vì vậy nên nó mới được gọi là “Cúm Tây Ban Nha”.
Chiến tranh và hệ thống chính trị đã buộc báo chí ở Mỹ, Pháp, Đức… phải im lặng trước bệnh cúm mới này. Do đó, một nghiên cứu vào năm 1927 còn kết luận rằng: “Ở rất nhiều nơi trên thế giới, đợt lây nhiễm đầu tiên vừa mờ nhạt, vừa không đủ thông tin để công chúng nhận thức vấn đề… và mọi nơi đều cho nó là một dạng cúm nhẹ.” Một số chuyên gia y tế lúc bấy giờ còn lập luận rằng căn bệnh quá nhẹ và không thể được xem là cúm.
Tháng 7/1918, một tờ thông tin y tế nội bộ của quân đội Mỹ ở Pháp còn tuyên bố: “dịch bệnh đã sắp chấm dứt… và đó là do khí hậu ngày càng tốt lên.” Một tạp chí y khoa ở Anh còn huênh hoang rằng bệnh cúm “đã hoàn toàn biến mất.”
Thật ra, tất cả đang diễn biến như một cơn sóng thần ngầm, chuẩn bị rút tất cả nước ra khỏi bờ biển và quay trở lại, ập vào với tất cả sức mạnh tổng lực của nó. Vào tháng 8/1918, đã xuất hiện các triệu chứng nghiêm trọng và gây tử vong nhiều hơn ở Thụy Sĩ, đến nỗi một viên chức tình báo thuộc Hải quân Mỹ đã phải ghi trong một báo cáo được đóng dấu “Tối Mật”, rằng “căn bệnh giờ đây đã lan ra khắp Thụy Sĩ và được biết như một dạng đại dịch đen, mặc dù nó có biểu hiện giống như căn bệnh đang gây chú ý tại Tây Ban Nha.”
Thế rồi khi đợt lây nhiễm thứ hai bùng nổ, thì mọi chuyện hoàn toàn khác.
Ngày 7/9/1918, một lính Mỹ được gửi đến bệnh viện tại trại huấn luyện quân sự Camp Devens trong tình trạng hôn mê và la hét dữ dội. Anh ta được chuẩn đoán bị viêm màng não. Ngày hôm sau, hàng chục người lính khác ở quân đoàn của anh ta cũng rơi vào tình trạng tương tự. Rồi ngày tiếp theo, có đến 1.543 người phải nhập viện. Bệnh viện rơi vào tình trạng quá tải. Bác sĩ và y tá cũng bị nhiễm bệnh. Hệ thống y tế tê liệt. Rất nhiều người đã chết sau đó.
Roy Grist, một bác sĩ có mặt tại bệnh viện của trại quân đội vào thời điểm đó, đã viết cho đồng nghiệp thế này:
“Những chàng trai bắt đầu biểu hiện bị chứng LaGrippe hay Cúm tấn công, và khi được mang đến bệnh viện, họ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn viêm phổi cấp tính tệ hại chưa từng có. Hai giờ sau khi nhập viện, xuất hiện các đốm Mahogany trên xương gò má, và chỉ vài giờ sau đó, bạn bắt đầu chứng kiến biểu hiện Xanh Tím (Cyanosis)” — là thuật ngữ ám chỉ cơ thể con người bị tím tái vì thiếu oxygen — “kéo dài từ tai và lan ra toàn bộ khuôn mặt… Rồi chỉ trong vài giờ nữa, cái chết xảy đến… Điều này thật kinh khủng… Chúng tôi đếm trung bình có khoảng 100 xác chết mỗi ngày… Những ngày sau đó đã không còn quan tài để mà bỏ xác vào, và xác chất hàng đống…”
Devens, và khu vực Boston, là những nơi đầu tiên ở Mỹ bị tấn công bởi đợt lây nhiễm thứ hai này của trận đại dịch. Và trước khi kết thúc, loại cúm này đã lan ra khắp nơi, từ vùng lạnh giá Alaska cho đến khu vực nóng ẩm Phi Châu. Và lúc này, nó nguy hiểm chết người.
Các vụ chết người gây kinh hoàng tại nơi dân cư có dịch bệnh. Nhưng các chính phủ Mỹ và Anh Pháp lại làm trầm trọng hơn vấn đề, vì họ muốn che giấu sự việc – do đang có chiến tranh với Đức Phổ. Ngoài ra, quân đội Mỹ đã lấy mất hơn 1/2 số bác sĩ dưới 45 tuổi và giỏi nhất để ra tiền tuyến, nên lực lượng y tế nội địa không còn đủ sức để chống chọi lại căn bệnh.
Chính sách của chính quyền Mỹ lúc bấy giờ luôn muốn giảm nhẹ vấn đề và giấu diếm sự thật. Còn nhớ lúc ấy, Tổng thống Woodrow Wilson (1856-1924) đã ra lệnh rằng “tinh thần bạo lực nhẫn tâm… cần phải được áp dụng cho mọi góc cạnh của đời sống quốc gia.” Do đó, ông ta đã lập nên Ủy ban Thông tin Công chúng (Committee on Public Information), được chỉ thị rằng: “Sự thật và lời nói dối là những thuật ngữ tùy ý và không bị bó buộc… Quyền lực của một ý tưởng nằm ở giá trị gây cảm hứng của nó. Không quan trọng mấy cho dù đó là sự thật hay lời nói dối.”
Do Wilson thúc ép, Quốc Hội Mỹ đã thông qua Đạo luật chống Nổi loạn (Sedition Act), trừng phạt đến 20 năm tù đối với “bất cứ hình thức ngôn ngữ, hình thức bày tỏ, chữ viết hay ấn phẩm không trung thành, xúc phạm, thô lỗ, hoặc lăng mạ thể chế chính quyền Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ… hoặc thuyết phục, kích động, bào chữa bênh vực bất cứ ý định cắt bớt hoặc làm suy giảm quá trình sản xuất những thứ thiết yếu để phục vụ chiến tranh nơi quốc gia này.” Các áp phích tuyên truyền của chính phủ còn hối thúc người dân báo cáo với Bộ Tư pháp bất cứ ai “đang loan truyền các câu chuyện bi quan… khóc lóc đòi hòa bình, hoặc coi thường nỗ lực quốc gia giành chiến thắng trong cuộc chiến.”
Thế rồi, người ta đã dùng các thuật ngữ khác để mô tả căn bệnh và cái chết. Hải quân Hoa Kỳ còn dùng từ “chết vì cảm cúm thường”, chứ không phải “cúm Tây Ban Nha” đối với các thủy thủ của mình.
Trên toàn nước Mỹ, những lời nói dối về căn bệnh được truyền đi. Tất cả các cấp chính quyền đều che giấu, cũng như đốc thúc người dân tiếp tục làm việc, lao động để phục vụ cho cuộc chiến tranh. Dịch bệnh lan nhanh chưa từng có. Người dân bắt đầu hoảng sợ. Hệ thống y tế trên toàn nước Mỹ bị tê liệt. Mọi thứ sinh hoạt trong dân cư đều bị đình chỉ, vì xã hội chứng kiến con số tử vong đột biến.
Thế rồi đợt lan truyền dịch thứ hai đột nhiên biến mất vào cuối năm 1918. Mọi người cứ nghĩ rằng đã thoát khỏi số phận. Nhưng đợt sóng thứ ba ập đến vào mùa Xuân năm 1919, với sức tàn phá sinh mạng hơn bất cứ căn bệnh nào trước đó, trừ đợt lây nhiễm thứ hai.
4. Virus cúm Tây Ban Nha đã có vai trò quan trọng trong việc kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và để lại hậu họa cho Chiến tranh Thế giới thứ hai bắt đầu.
Ngày 3/4/1919, trong cuộc hội đàm cho Hòa ước tại Versailles, Tổng thống Woodrow Wilson suy sụp vì chính căn bệnh cúm này. Tình trạng yếu kém về mặt thể chất đã dẫn đễn sự thiếu quyết đoán về mặt tinh thần, khi Mỹ tham gia vào cuộc hội đàm để kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Kết quả là các bên đã thông qua một bản Hòa ước đầy tai họa và thất bại, mà sau đó chính nó trở thành nguyên nhân đóng góp cho sự khởi đầu của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một số nhà sử học đã ghi nhận sự yếu kém về quyết đoán của Tổng thống Wilson trong hội đàm là do một cơn đợt quỵ nhỏ. Thật ra, ông này đã sốt 103°F (39,5°C), bị cơn ho hành hạ, đi cầu chảy, và các triệu chứng nghiêm trọng khác. Một cơn đột quỵ không hề đem đến triệu chứng nào cả. Nhưng chính bệnh cúm, mà sau đó đã lan ra khắp thủ đô Paris và giết chết ngay cả một sĩ quan phụ tá cho Tổng thống Wilson, đã giải thích tất cả những nguyên nhân này — bao gồm cả việc ông này bị rối trí. Các chuyên gia sau này đều đồng thuận rằng, rất nhiều bệnh nhân bị dính đại dịch cúm đã biểu hiện các triệu chứng rối loạn tâm thần hoặc nhận thức. Và triệu chứng bệnh lý về thần kinh này cũng nghiêm trọng không kém hậu quả của virus gây ra đối với hệ hô hấp.
5. Một vấn đề nữa được đặt ra chính là bao nhiêu người chết và số tử vong chủ yếu là vì nguyên nhân gì. Mặc dù số lượng tử vong được ghi nhận là kỷ lục trong lịch sử loài người, phần lớn nạn nhân bị lây nhiễm virus từ đại dịch đã sống sót. Ở các quốc gia phát triển, tổng tỷ lệ tử vong vào khoảng 2%. Ở các nước kém phát triển, tỷ lệ này cao hơn. Tại Mexico, tỉ lệ chết ước tính từ 2,3% đến 4% so với tổng dân số quốc gia này vào thời điểm đó. Phần lớn nước Nga và Iran chứng kiến 7% dân số của họ chết. Quần đảo Fiji chết 14% dân số chỉ trong 16 ngày. 1/3 dân chúng ở bán đảo Labrador (Canada) chết. Trong các làng nhỏ người bản xứ ở Alaska và Gambia, mọi người đều chết hết, có thể là vì tất cả đều mắc bệnh cùng lúc và không ai có thể chăm sóc cho người khác, ví dụ như cho uống nước. Nhiều trường hợp chết là vì buông xuôi tất cả và không muốn tiếp tục sống, vì chứng kiến người thân yêu xung quanh mình đều đã chết.
Độ tuổi của các nạn nhân cũng rất đáng quan tâm. Thường thì người già dễ tử vong vì các bệnh liên quan đến cúm. Tuy nhiên, trong dịch cúm năm 1918, mọi chuyện lại trái ngược: người trẻ lại bị suy sụp và dễ chết hơn, với số lượng tử vong cao nhất. Ví dụ như, trong một nghiên cứu của Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Metropolitan (Metropolitan Life Insurance Company), số người trong độ tuổi từ 25 đến 45 chiếm 3,26% tổng số lao động công nghiệp và 6% tổng số thợ đào mỏ than đá đã chết vì bệnh. Các nghiên cứu khác còn cho thấy tỷ lệ tử vong ở phụ nữ có thai chiếm từ 23% đến 71%.
Vậy tại sao quá nhiều người trẻ phải chết? Khi dịch bệnh xảy ra, người trẻ trưởng thành thường có hệ miễn dịch và sức đề kháng mạnh mẽ nhất, và cơ chế này đã tấn công virus với mọi thứ vũ khí có thể được trong tình huống xấu nhất — bao gồm các chất sinh hóa học được gọi là cytokines (các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác, hoạt động trong vai trò là các chất trung gian điều hòa giữa các tế bào trong cơ thể) và các chất độc chống lại vi khuẩn khác — tại trận địa gay cấn nhất là lá phổi của người bệnh. Các “cơn bão cytokine” này đã làm tổn hại nghiêm trọng mô tế bào của vật chủ. Theo Ts. Edwin Kilbourne – một chuyên gia về bệnh cúm, sự hủy diệt này (bao gồm do cả virus lẫn hệ miễn dịch vật chủ gây ra) tương đương với các thương tổn ở phổi khi chúng ta hít phải khí độc.
Trong kỷ nguyên của các cuộc khủng hoảng – cho dù là dịch bệnh hay đột biến khí hậu, bất cứ biến cố nào cũng có thể bị lợi dụng hoặc biến thành lý do để con người đàn áp chính trị và áp đặt quyền lực của mình, chống lại sự thật đang đe dọa hệ thống của họ.
Dịch coronavirus hiện đang xảy ra trên thế giới cũng vậy. Đã xuất hiện những động thái che giấu và bịt miệng các bác sĩ đầu tiên cảnh báo về căn bệnh ở Trung Quốc. Sau khi căn bệnh lan ra khắp nơi, thậm chí các chính phủ ở nước láng giềng vẫn không đóng cửa biên giới, không cắt đường bay. Họ xem trọng sức tăng trưởng của nền kinh tế hơn sức khỏe người dân. Họ lo sợ một căn dịch bệnh sẽ làm tổn hại doanh thu và túi tiền của các hãng và tập đoàn doanh nghiệp. Thế là bây giờ, một loạt quốc gia đang bị dịch nCoV lan tới với sức mạnh không thể kiểm soát nổi: Hàn Quốc, Nhật Bản, Iran, Italy, Singapore, Việt Nam… và sắp tới là Mỹ. Hệ thống kinh tế đang suy sụp. Thị trường chứng khoán rớt điểm nghiêm trọng.
Hãy nhớ rằng, nguyên tắc khi khủng hoảng xảy ra và đe dọa tính mạng cũng như điều kiện sống của con người, thì nguyên tắc chính là “Bạn không thể kiểm soát sự thật được đâu. Bạn phải nói đúng sự thật.”
Điều này cũng áp dụng cho biến đổi khí hậu. Và chúng ta hãy nhìn lại xem, mấy ngày hôm nay, cũng như Tập Cận Bình và bộ máy của ông ta đã từng bịt miệng các bác sĩ Vũ Hán như thế nào, thì Tổng thống Mỹ Donald Trump hiện cũng đang tìm cách nói nhẹ đi tình hình lây lan dịch bệnh tại Mỹ, cố sức bao che cho phản ứng yếu ớt và thiếu hụt nguồn lực chống dịch của các thuộc cấp bất tài của ông ta trong CDC (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ) và FDA (Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ), và mạnh miệng đe dọa cũng như hối thúc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cần phải bơm thêm tiền hoặc có động thái cứu rỗi nền kinh tế Mỹ.
Lịch sử đang được lập lại, dù ở bất cứ đâu. Trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 xảy ra là vì có sự kết hợp giữa sự biến chủng của virus với ý muốn kiểm duyệt thông tin của con người cho phù hợp với chính sách cai trị. Đến bao giờ đám dân đen, dù ở Mỹ hay ở Việt Nam, mới hiểu được điều đó?
Và kinh khủng hơn, bạn hãy đối chiếu tình hình của biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay với những lời nói dối, cố tình tung tin sai lệch, cố ý giảm nhẹ vấn đề… đã và đang xảy ra trong giới lãnh đạo chính trị và kinh tế toàn cầu. Hệ thống kinh tế tư bản hiện đại không cho phép nói về đúng sự thật để người dân chuẩn bị đâu.
Với chỉ 46.500 VND (2 USD) hàng tháng – tương đương giá trị của 1 bát phở, bạn có thể giúp chúng tôi đem tin tức mới nhất về cuộc khủng hoảng Biến đổi Khí hậu và sụp đổ Hệ Sinh Thái đến cho cộng đồng Việt Nam. Chúng tôi thậm chí còn đang tìm ra những cách để tư vấn và thông tin cho người dân Việt Nam về các phương thức giúp dân tộc chúng ta thay đổi và sống sót trong kỷ nguyên Biến đổi Khí hậu.
[wpforms id=”2628″]
Phần chia sẻ ý kiến