GIÁO HỘI KHẢI HUYỀN
“..đã đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.” (Sách Khải Huyền, chương 11, câu 18) Tôi viết status này để dành riêng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, trong...
Lọc theo mục lục
“..đã đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.” (Sách Khải Huyền, chương 11, câu 18) Tôi viết status này để dành riêng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, trong...
Cơn sóng nhiệt quét ngang Châu Âu từ 2 tuần trước đã vừa gây ra một vụ tan băng đáng kể ở đảo Greenland khi nó tràn lên vùng Bắc Cực. Chỉ riêng trong ngày thứ Tư tuần này...
Lính Mỹ đang có những triệu chứng suy sụp sức khỏe và chết do nền nhiệt cao và khí hậu đang ấm lên. Ít nhất 17 quân nhân tại ngũ đã chết do các bệnh liên quan đến nhiệt trong vòng...
Ai muốn biết về số phận của loài người cùng các kịch bản sẽ xảy ra vào thời điểm cuối cùng của nhân loại trong cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu, thì nên xem hết clip này. Trong...
“Trước khi người anh em da trắng đem nền văn minh đến, chúng tôi không có nhà tù. Do đó, chúng tôi không có tội phạm. Bạn không thể có kẻ phạm tội mà không có một nhà tù. Chúng...
Vào năm 1957, Curt Richter, một nhà nghiên cứu tâm lý của trường Đại học Y khoa Johns Hopkins đã thực hiện một thử nghiệm về ảnh hưởng của nhiệt độ nước đối với khả năng chịu đựng...
Hôm nay, Thứ Sáu 28/6/2019, nền nhiệt nước Pháp lại thiết lập một mức kỷ lục mới tại khu vực miền Nam, gần Marseille: 45,1°C. Ở Tây Ban Nha, 10.000 mẫu đất rừng tại khu vực Đông...
Nhân ngày lễ Mình và Máu Thánh của Chúa Jesus, HÀNH TINH TITANIC xin gửi tặng các bạn câu chuyện ngụ ngôn hiện đại sau đây về nguyên tắc bao dung của SỰ SỐNG, được bạn Tuan Kiuti...
Hiện tượng xem ra giống như mây này chỉ xảy ra ở ĐỘ CAO rất lớn 76-85 km từ bề mặt Trái Đất, và chỉ có thể nhìn thấy vào lúc màn đêm buông xuống, nhưng vẫn còn chút ánh sáng của...
Trên ảnh bìa của tạp chí Time tháng 6/2019 là hình ảnh Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, đứng ngoài bờ biển của quốc đảo Tuvalu, giữa những lớp sóng của Thái Bình Dương...
“..đã đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.” (Sách Khải Huyền, chương 11, câu 18)
Tôi viết status này để dành riêng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, trong cơn thác tràn ngập của những tin tức khoa học về sự tan rã của băng ở Bắc Cực, sự gia tăng nền nhiệt toàn cầu trong tháng 7/2019 đã vượt qua ranh giới an toàn +2°C, sự sụp đổ nhanh chóng của hệ sinh thái hành tinh, mối đe dọa của cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6, và nhất là thái độ ngoan cố và kiêu ngạo của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, vẫn tiếp tục xả thải khí nhà kính bất chấp sự thật về một cuộc khủng hoảng đột biến khí hậu đang diễn ra trước mắt mọi người.
Đã đến lúc chúng ta phải chấp nhận những sự thật sau, mà tôi biết rằng, chính Vatican và Đức Giáo Tông Francis cũng đã hiểu và biết thông qua các chuyên gia cố vấn nghiêm túc về tình hình biến đổi khí hậu:
1. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu đã xảy ra nhanh hơn tất cả mọi dự đoán chính thức của IPCC, Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học chính thống khác. Thời điểm mà loài người có thể sửa chữa được đã ở trong quá khứ. Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để phục hồi và quay lại một nền khí hậu an toàn như trước đây 200 năm. Và bây giờ, chúng ta phải sống trong kỷ nguyên Đột biến Khí hậu, với sự sụp đổ dần dần của các con cờ domino khí hậu và hệ sinh thái. Đã quá trễ cho bất cứ hy vọng nào.
2. Những gì xảy ra chắc chắn sẽ không thể ngăn chặn được, đặc biệt là các thảm họa khí hậu đối với tầng lớp người nghèo và các quốc gia yếu kém về khả năng chống đỡ thảm họa. Đó là vì sự tham lam và kiêu ngạo đã như thứ tội tổ tông nhấn chìm tất cả loài người trong vòng xoáy của dục vọng và cơn thỏa mãn tiêu dùng. Vì quán tính ấy, con người không còn có thể tránh thoát số phận của mình.
3. Trong một hành tinh đang bốc cháy, nhà ai cũng sẽ cháy hết, thì chẳng ai có thể lo được cho nhà của người khác. Đó là thực tế mà chúng ta phải nhận ra và chuẩn bị cho chính mình, gia đình, xã hội, đất nước và cộng đoàn giáo hội.
4. Theo các dự báo của giới khoa học gia có lương tâm (mà họ đã kêu gào và đấu tranh từ cách đây 20 năm, nhưng không thể chống lại được khuynh hướng tăng trưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại), chúng ta còn 10 năm để chuẩn bị, nếu không nói là chỉ có 6 năm (mốc thời gian năm 2026). Càng nhận thức sớm nguy cơ, mọi cá nhân, tổ chức, cộng đoàn càng có khả năng để thích nghi, sống sót, giảm bớt những đau thương trong giai đoạn cuối của lịch sử loài người.
Và vì thế, nếu nói thẳng về mặt đức tin, thì chúng ta là một Giáo Hội Lữ Hành đang tiến vào giai đoạn của Khải Huyền, nơi mọi cơn thử thách đau đớn nhất, khắc nghiệt nhất và độc ác nhất sẽ ập đến cùng một lúc. Tôi kêu gọi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cần chú ý đến những thực tế sau đây để lên kế hoạch sống Tin Mừng những ngày cuối cùng này:
1. Đọc kỹ những status tôi đã viết trên trang HÀNH TINH TITANIC, đặc biệt là bài LỜI KHUYÊN tại:
2. Các giáo phận sau đây sẽ được liệt kê vào danh sách vùng trực tiếp đối mặt với thảm họa khí hậu: Giáo phận Cần Thơ, Giáo phận Long Xuyên, Giáo phận Vĩnh Long, Giáo phận Mỹ Tho, Tổng Giáo phận Sài Gòn, Giáo phận Phan Thiết, Giáo phận Quy Nhơn, Giáo phận Đà Nẵng, Giáo phận Huế, Giáo phận Hà Tĩnh, Giáo phận Vinh, Giáo phận Bùi Chu, Giáo phận Phát Diệm, Giáo phận Thái Bình, Giáo phận Hải Phòng, Tổng Giáo phận Hà Nội, và Giáo phận Bắc Ninh. Như vậy, có đến 17 giáo phận trong tổng số 27 giáo phận sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu. Các giáo phận đặc biệt bị tác động nghiêm trọng chính là nằm ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung. Tuy nhiên, số người dân Việt Nam đối mặt với các nguy cơ của sốc nhiệt, hạn hán, lũ quét, nạn đói, mực nước biển dâng, bão tố… sẽ lên đến ít nhất 60 triệu người. Không ở đâu là thoát được.
3. Thiết lập các cộng đoàn chuyên biệt để nghiên cứu, cố vấn, mục vụ và phục vụ cho việc chữa lành, hàn gắn, giảm bớt nỗi đau và thiệt hại từ các thảm họa khí hậu. Sẽ có các đợt di dân tị nạn khí hậu rất lớn xảy ra từ các vùng thảm họa, đặc biệt là từ Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung lên các vùng cao như Bình Phước, Lâm Đồng, Tây Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, và thậm chí băng qua cả Lào và vào Thái Lan. Cùng lúc đó, số lượng lương thực thực phẩm tại những nơi gieo trồng truyền thống (các vùng đồng bằng) sẽ bị hủy diệt phần lớn bởi thảm họa khí hậu. Và do đó, nhu cầu về các điều kiện sống căn bản (như nước sạch và thức ăn) sẽ gia tăng đột biến. Ai sẽ cho họ ăn uống? Hãy nhớ lại Lời của Chúa Giê-su tại Sách Tin Mừng theo Thánh Luca, chương 9, câu 13. Hãy thiết lập các cứ điểm trên vùng an toàn, xây dựng một nếp sống hài hòa kết hợp với thiên nhiên để dạy dỗ con người biết sống hạnh phúc đích thực và nhận lại ân huệ của Thiên Chúa nơi mọi tạo vật mà “Người thấy rất tốt đẹp” trong quá trình sáng tạo nên vũ trụ này.
4. Cuộc khủng hoảng khí hậu sẽ quét sạch mọi thứ vật chất chúng ta biết và đang hưởng từ tiện nghi của nền văn minh hiện nay. Để sống sót, tất cả sẽ trải qua một cơn sốc tập thể. Ai không chấp nhận thay đổi và thích nghi được thì sẽ chết. Và vì thế, các giáo chức, cộng đoàn giáo hội địa phương cần bắt đầu tập luyện cách sống theo nghĩa đen của một Gioan Tẩy Giả, một Tiên tri Ezekiel, hay những cộng đoàn tiên khởi được mô tả trong Sách Công vụ Tông Đồ. Giáo Hội cần chuẩn bị cho cộng đoàn giáo dân một Đức Tin vững vàng, một Đức Cậy sắt đá, và một Tình Yêu có thể đón nhận mọi điều xảy đến trong tương lai gần. Chúng ta cần mở rộng vòng tay để giúp đỡ mọi người anh em khốn khổ trên đất nước Việt Nam cho đến thời khắc cuối cùng, lúc kiệt sức và ngã xuống trong bình an của Thiên Chúa. Và đây là cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng và truyền đi thông điệp của Lòng Thương Xót mà Con Thiên Chúa đã dành cho loài người. Nếu nhận ra điều đó, thì chúng ta là những kẻ có phúc vì được sống và làm chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa trong thời khắc cuối cùng của lịch sử loài người.
Còn nhớ Đức Thánh Giáo Tông John Paul II (1920-2005) đã có lời tiên đoán rất chính xác về số phận của con người, như sau: “Xã hội hiện đại sẽ không tìm được giải pháp cho vấn đề khủng hoảng môi trường, trừ khi chúng ta xem lại nghiêm túc cách sống của mình”.
Ông còn nêu ra trách nhiệm rất lớn của loài người qua việc đưa ra một đoạn văn Kinh Thánh rất đặc trưng: “Mối đe dọa đối với môi trường, cây cỏ, muôn loài thú vật, nước và bầu không khí ngày càng gia tăng. Kinh Thánh cho chúng ta thấy hình ảnh của Cain, người khước từ trách nhiệm của mình: ‘Tôi là người giữ em tôi hay sao?’ Kinh Thánh bày tỏ nhân vị của con người, với vị trí là kẻ trông giữ anh em mình và là thần hộ mệnh của sáng tạo, đã được giao phó cho chúng ta.”
Thật vậy, sau khi giết Abel, em của mình, đất đai đã không còn sinh ra hoa màu và lương thực cho Cain nữa (Sách Sáng Thế, chương 4, câu 12). Và đúng như thế, từ khi con người tìm cách bóc lột, ghen ghét, đàn áp, giết chóc lẫn nhau, thì thiên nhiên cũng cằn cỗi, rên xiết và xảy ra nhiều thảm họa gay gắt hơn.
Ai đó theo khuynh hướng triết lý của Aristotle và thần học của Thánh Thomas Aquinas (thuộc Dòng Ordo Praedicatorum – OP) có thể tự cho rằng con người phải đứng ở một vị trí cao cấp hơn, ưu đẳng hơn và có quyền thống trị so với và đối với mọi loài thọ tạo khác (Anthropocentrism). Họ sẽ viện lý do rằng chính Đức Chúa đã phán rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” (Sách Sáng Thế, chương 1, câu 28). Vậy nên vị trí của con người là đứng ở trên đỉnh tháp của trật tự sáng tạo. Thế nhưng, những người này đã quên mất rằng, đấy là lời hứa trước khi bà Eve cắn một miếng vào trái cấm với tham vọng được “biết điều thiện điều ác” và trở nên ngang bằng với Đấng Tạo Hóa. Ngay sau hành vi phạm tội đầu tiên – tội nguyên tổ của kiêu ngạo, tham lam và sa ngã, cả Bà Eve và Ông Adam – những thủy tổ đầu tiên của loài người – đều bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng và không còn được hưởng bất cứ ưu đãi nào như trên nữa. Và thế là cả một giống loài tiếp tục trượt dài theo vết xe đổ của cha ông, từ hành động Cain giết Abel đến cơn Hồng thủy, việc xây tháp Babel, sự hủy diệt Sodom và Gomorrah, cuộc ghen ghét trong gia đình Jacob/Israel, làm nô lệ trên đất Ai Cập, đúc tượng bò vàng, tranh giành quyền lực giữa Saul và David, bạc đãi các ngôn sứ, và cuối cùng là đóng đinh chính Con Thiên Chúa vào thập giá.
Lịch sử hiện đại của con người còn ghê gớm hơn nữa, với sự nổi lên của chủ nghĩa tư sản sau hàng nghìn năm bạo tàn và tranh chấp của các triều vua phong kiến, biến thành chủ nghĩa thực dân chuyên đi bóc lột và xâm chiếm thuộc địa, nảy sinh ra mâu thuẫn giai cấp và dân tộc, dẫn đến nhiều thái cực vô cùng của quyền lợi quốc gia và độc tài như chủ nghĩa phát xít, gây ra hai cuộc đại thế chiến lấy đi sinh mạng của hàng chục triệu người, và khiến một chủ nghĩa cực đoan khác xuất hiện để đối kháng và chống đối, là chủ nghĩa cộng sản. Nay tất cả như hòa vào một mối là chủ nghĩa tư bản hiện đại, với mục tiêu bóc lột thiên nhiên (và cả con người một cách khéo léo) để phục vụ cho lợi ích tư hữu, lòng ích kỷ và quyền lực tối thượng của nền tài chính tư sản. Các quốc gia tìm mọi cách để kết bè phái kinh tế – chính trị nhằm trục lợi và thu vén nguồn tài nguyên cho giai cấp thống trị của mình, tập trung quyền hành vào guồng máy tài chính ngân hàng, lôi kéo quyền lực chính trị, cám dỗ và thuyết phục đám đông dân chúng cùng tham gia vào hệ thống sản xuất và bóc lột thiên nhiên để hy vọng được hưởng tiện nghi vật chất từ nền kinh tế sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa tiêu dùng vô độ. Tất cả đều muốn đứng trên đỉnh tháp. Tất cả đều có tham vọng nắm quyền lực chi phối mọi tạo vật. Tất cả đều hy vọng được hưởng thụ và thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Tất cả đều kiêu ngạo vì muốn giống như và ngang bằng với Thượng Đế.
Có lẽ, chúng ta nên nhìn lại và khiêm nhường hơn, như cách nhìn đời của Thánh Bonaventura de Balneoregio (thuộc Dòng Ordo Fratrum Minorum – OFM), khi ông cho rằng mọi thọ tạo đều phản ánh Ba Ngôi: Ngôi Cha như nguồn gốc, ngôi Con như hình ảnh, và Thánh Thần như mối dây liên kết. Con người vì là hình ảnh (imago) của Thiên Chúa, nên có thể vươn lên và trở về với nguồn gốc của mình, nhờ khả năng đọc quyển sách là thế giới thọ tạo này để nhận biết Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính thiên nhiên và vũ trụ này là một phần của khuôn mặt Đấng Tạo Hóa, mà từ lâu, con người đã đạp đổ và lãng quên khi tự tôn mình lên một cách kiêu ngạo và ích kỷ. Vị trí của con người nên nằm bên trong vòng tròn sinh mệnh của hệ sinh thái sự sống, nơi chúng ta thể hiện tình thương, tình liên đới và đức tôn trọng sự sống đối với mọi loài thọ tạo khác, vì chúng cũng được Thiên Chúa tạo ra. Con người không nên có bất cứ quyền thống trị bạo tàn nào trên muôn loài, ngoài tình thương yêu vô hạn, vì chính khi chúng ta đối xử tốt với vạn vật, thì cũng là lúc chúng ta yêu thương người khác và vì lợi ích của chung anh em trong một nhà.
Cũng vậy, linh mục Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) (thuộc Dòng Societas Iesu – SJ), nhà nhân chủng học và cổ sinh vật học uyên bác của thế giới, đã phá vỡ quan niệm xơ cứng và cũ kỹ ấy về quyền lực thống trị của con người, bằng việc viết cuốn sách “Lãnh Vực Thần Linh” (Le Milieu Divin) và đề tặng cho “cho những ai yêu mến thế gian”. Đó quả là một cú sốc đối với giới kinh viện tu sĩ Thiên Chúa giáo trước khi có sự cởi mở của Công đồng Vatican II, vì người ta cứ nghĩ rằng, sự thánh thiện của Thiên Chúa và “lòng yêu thế gian” khó mà đi đôi được với nhau, nhất là khi Thư thứ nhất của Thánh John Tông Đồ từng dạy: “Đừng yêu thế gian hay các sự việc thuộc thế gian” (Chương 2, câu 15), hoặc Thánh John Thánh Giá cũng viết tương tự: “Phải hoàn toàn xa lánh, hoàn toàn dốc bỏ và hoàn toàn nghèo nàn đối với mọi sự thuộc về thế gian”. Cái hiểu truyền thống về thánh thiện vẫn coi công việc thế tục gây trở ngại thiêng liêng cho ta, và coi thế giới quanh ta là phù vân và tro bụi. Muốn đạt tới những sự việc thuộc về Chúa, người ta buộc phải khưóc từ các sự việc thuộc thế gian. Thế nhưng “sự thánh thiện” của Teilhard là khá lạ, vì nó chủ yếu cho thấy một lòng tận tụy đối với thế gian và các công trình thế tục. Ông đã cố gắng đạt tới sự thánh thiện bằng cách làm việc trong ngành khoa học, và cố gắng này đòi phải có một cái hiểu mới về thánh thiện. Ông tiếp cận khoa học bằng tâm tình của một người mộ đạo, nói tới “nhiệm vụ thánh thiêng trong nghiên cứu. Ta phải thử nghiệm mọi rào cản, tìm hiểu mọi ngả đường, dò tìm mọi vực sâu”. Với Teilhard, tìm tòi nghiên cứu là một hình thức của thờ lạy với khoa khổ hạnh riêng của nó. Trong tác phẩm “Sự sống vũ trụ” (The Cosmic Life), ông mô tả việc hiệp thông với trái đất như là cách vươn tới sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nền thần học của ông xoay quanh ý niệm của Thánh Paul về “thân thể Chúa Kitô”. Thánh Paul kêu gọi Kitô hữu nhận ra mình không phải như các cá nhân riêng rẽ nhưng như một thân thể. Hơn nữa, những dòng suy tư của Thánh Paul còn gợi cho Teilhard điều này nữa: “thân thể Chúa Kitô” bao gồm luôn cả thế giới vật chất, vì trong Chúa Kitô “muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình… tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người… tất cả đều tồn tại trong Người” (Thư gửi Tín hữu Colossae từ Rome, chương 1, câu 16-17). Sự hợp nhất muôn vật nơi Chúa Kitô chỉ có thể thực hiện được bằng cách xây dựng một hạ tầng thế tục. Qua việc làm trong khoa học, kỹ thuật, quản trị, giáo dục và thống nhất các dân tộc, người Kitô hữu được mời gọi phát triển thế gian để nó trở nên thân thể xứng hợp cho Chúa Kitô, Đấng là linh hồn của nó. Tiến hóa là một diễn trình xây dựng, và Kitô hữu nên dấn thân tiếp tục diễn trình này. Teilhard từng viết: “Hợp tác vào việc phát triển vũ trụ phải được coi là nghĩa vụ chủ yếu và hàng đầu trong các nhiệm vụ của Kitô hữu”. Teilhard đề nghị rằng cần phải có một cộng đồng tôn giáo trong đó, người ta thề hứa sẽ đẩy mạnh hơn nữa công trình của thế gian, một công trình đòi phải có khoa khổ hạnh riêng, buộc người ta phải khước từ chủ nghĩa cái tôi và từ bỏ hết mình (supreme renunciation).
Đây là lối suy nghĩ hoàn toàn mới. Kitô hữu phải yêu mến thế gian, vì ta thấy Chúa Kitô ở đó. Đau khổ không còn là hình phạt của tội lỗi nữa, mà là cái giá mỗi người chúng ta phải trả để mang vũ trụ tới chỗ thành toàn của nó trong Chúa Kitô. Một vài tuần sau khi viết xong “Sự Sống Vũ Trụ”, Teilhard thêm lời bạt nhìn nhận là mình đã giới thiệu “một xu hướng hoàn toàn mới cho giáo huấn khổ hạnh của Kitô Giáo”. Buổi sáng Chúa Nhật Phục Sinh năm 1923, đang trong quá trình khai quật các hóa thạch tại Sa mạc Ordos thuộc vùng Nội Mông, Linh mục Teilhard de Chardin đã viết những dòng đầu tiên cho một trong các tiểu luận được nhiều người ưa thích hơn cả, đó là cuốn “Thánh Lễ Vũ Trụ” (Mass on the World). Đứng trên mảnh đất vàng của Đông Phương, ông nói tới việc biến toàn bộ trái đất thành bàn thờ của mình. Trong phần dâng lễ của Thánh Lễ đặc biệt này, ông dâng lên mọi lao công và đau đớn của thế gian. Bánh lễ – là Thân thể và Sự Sống của Chúa Kitô – bao gồm mọi sự đang bừng lên, đang lớn lên, đang đâm trồi nở hoa và kết trái. Rượu lễ – là máu của hy sinh và hiến tế mà Con Thiên Chúa đã đổ ra – đại diện cho mọi thứ đang bị xói mòn, tàn tạ, phá hủy, đốn hạ và chết đi vì tội lỗi và sự ác. Trong phần truyền phép, Chúa Kitô, qua linh mục, nói tới việc coi sự phát triển của thế gian là thân thể mình, còn những xao xuyến và chết chóc của nó là máu mình. Chúa Kitô ở khắp mọi nơi, và thế gian được truyền phép thành chính xác thịt Người. Tiếp theo sự kỳ diệu của truyền phép, linh mục tiến qua phần Hiệp Lễ. Khi vươn tay cầm lấy “bánh rực lửa”, linh mục cam kết vượt quá con người mình, tự để mình bị lôi cuốn vào các lao công, các nguy hiểm và việc không ngừng canh tân các ý niệm. Qua tất cả những điều đó, ngài sẽ lớn lên và trong diễn trình lớn lên này, ngài tìm thấy Thiên Chúa: “Người được đầy tràn tình yêu tha thiết đối với Chúa Jesus ẩn tàng trong các sức mạnh đang đem lại gia tăng cho trái đất, người ấy sẽ được trái đất nâng cao, như một bà mẹ… và sẽ giúp họ khả năng chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa”.
Có lẽ, đã đến lúc chúng ta – những người tin vào Thiên Chúa – cần phải sống như Linh mục Teilhard de Chardin. Chúng ta sẽ cử hành những nghi thức cuối cùng của lễ cầu hồn dành cho muôn loài, và cho cả số phận và linh hồn của chúng ta nữa. Có lẽ những con người “yêu mến thế gian”, “tôn trọng thế gian”, từng đặt niềm hy vọng vào sự tốt đẹp của thế gian như thân thể tuyệt mỹ và hoàn hảo của Chúa Kitô, sẽ buồn khổ, rơi lệ và đau đớn chứng kiến sự sụp đổ của thế giới chắc chắn xảy ra trong tương lai gần, nhưng chính họ lại là chứng nhân sống động cho tình yêu và niềm hy vọng mà Thiên Chúa muốn đặt để vào cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa nỗ lực xây dựng và tham vọng hủy diệt, giữa sự sống và cái chết.
Hãy xem cái chết như là một sự hiệp thông với nỗi đau khổ và dòng máu tuôn trào của Đấng Cứu Thế. Hãy tin rằng, nếu đã có Lúc Sáng Thế, thì hẳn phải có Thời Tận Cùng, nhưng Sự Sống của Đức Kitô mãi mãi tuôn chảy qua dòng lịch sử, và là điểm cuối cùng của hành trình muôn loài phải đi đến, mà rồi sẽ phục sinh những điều mà chính Thiên Chúa đã thốt lên vào cuối ngày thứ sáu khi khởi đầu công việc sáng tạo vạn vật: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (Sách Sáng Thế, chương 1, câu 31).
Hãy tin rằng, lửa mà Chúa Jesus đã ném vào thế gian và tuyên bố “Thầy ước mong phải chi lửa ấy sẽ bùng lên” (Tin mừng theo Thánh Luke, chương 12, câu 49) cuối cùng rồi cũng sẽ khiến chúng ta phải chọn lựa sống và hành động một cách dứt khoát và tuyệt đối khi thời giờ đã gần đến.
Xin Chúa thương xót linh hồn của tất cả chúng con…
Phần chia sẻ ý kiến