BÁO CÁO TÌNH TRẠNG KHÍ HẬU NĂM 2023: CẢ THẾ GIỚI BƯỚC VÀO CHỐN VÔ ĐỊNH VÀ CHƯA BIẾT ĐẾN BAO GIỜ


hanhtinhtitanic
BÁO CÁO TÌNH TRẠNG KHÍ HẬU NĂM 2023: CẢ THẾ...

Hành tinh Titanic chuyển ngữ từ nguồn: The 2023 state of the climate report: Entering uncharted territory

Sự sống trên hành tinh Trái Đất đang bị đe dọa. Hiện chúng ta đang bước vào một giai đoạn chưa biết đến bao giờ. Trong nhiều thập kỷ, giới khoa học đã liên tục cảnh báo về một tương lai được đánh dấu bởi các điều kiện khí hậu khắc nghiệt do nền nhiệt độ toàn cầu leo thang, vì các hoạt động đang diễn ra của con người phát thải khí nhà kính có hại vào bầu khí quyển. Thật không may, thời gian đã hết. Chúng ta đang chứng kiến biểu hiện của những dự báo đó, với các kỷ lục về khí hậu bị phá vỡ liên tiếp một cách đáng báo động và chưa từng có, gây ra thảm cảnh vô cùng đau khổ. Chúng ta đang bước vào một miền đất xa lạ liên quan đến cuộc khủng hoảng khí hậu, một tình huống chưa ai từng chứng kiến tận mắt trong lịch sử nhân loại này.

Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày một loạt các dấu hiệu quan trọng của hành tinh, cũng như các nguyên nhân tiềm ẩn gây ra biến đổi khí hậu và các phản ứng liên quan đến khí hậu được trình bày lần đầu tiên bởi Ripple và Wolf cùng cộng sự nghiên cứu ( năm 2020), những người đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp về khí hậu, và hiện có hơn 15.000 nhà khoa học cùng ký tên vào bản tuyên bố. Những xu hướng này tiết lộ các kỷ lục mới vượt mọi thời đại liên quan đến khí hậu, và các hình thái thảm họa có liên quan sâu sắc đến khí hậu. Đồng thời, chúng tôi cũng báo cáo về những tiến bộ tối thiểu của nhân loại trong tiến trình ngăn chặn biến đổi khí hậu. Với những diễn biến đáng lo ngại này, mục tiêu của chúng tôi là truyền đạt sự thật về khí hậu và các khuyến nghị chính sách dành cho giới khoa học, hoạch định chính sách và công chúng. Nhiệm vụ đạo đức của các nhà khoa học và tổ chức của chúng tôi là cảnh báo rõ ràng cho nhân loại về bất kỳ mối đe dọa hiện hữu tiềm tàng nào, và thể hiện vai trò lãnh đạo trong hành động. Báo cáo này là một phần trong chuỗi cập nhật hàng năm ngắn gọn và dễ tiếp cận của chúng tôi về tình trạng khủng hoảng khí hậu.

Các ghi nhận kỷ lục liên quan đến khí hậu

Vào năm 2023, chúng ta đã chứng kiến một loạt kỷ lục đáng kinh ngạc liên quan đến khí hậu bị phá vỡ trên khắp thế giới. Tốc độ thay đổi nhanh chóng này đã khiến giới khoa học ngạc nhiên và lo ngại về sự nguy hiểm của thời tiết khắc nghiệt, các vòng lặp phản hồi khí hậu đầy rủi ro, và cách tiếp cận các điểm tới hạn gây thiệt hại đến sớm hơn dự kiến (Armstrong McKay và cộng sự nghiên cứu – năm 2022, Ripple và cộng sự nghiên cứu – năm 2023). Năm nay, những đợt nắng nóng đặc biệt đã càn quét qua thế giới, dẫn đến nền nhiệt độ cao kỷ lục. Các đại dương đã ở mức nóng nhất trong lịch sử, nhiệt độ bề mặt nước biển ở Bắc Đại Tây Dương và toàn cầu đều phá vỡ kỷ lục, cũng như độ phủ băng biển thấp chưa từng thấy xung quanh lục địa Nam Cực (hình số 1a–1d bên dưới ). Ngoài ra, từ tháng 6 đến tháng 8 năm nay là khoảng thời gian ấm nhất từng được ghi nhận, và vào đầu tháng 7, chúng ta đã chứng kiến nhiệt độ bề mặt trung bình hàng ngày trên toàn cầu chạm mốc cao nhất từng đo được. Có thể đó là mốc nhiệt độ ấm nhất trên Trái đất trong 100.000 năm qua (hình số 1e bên dưới). Đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang đẩy hệ thống hành tinh này vào tình trạng mất ổn định nguy hiểm.

Hình số 1.
Những chỉ báo bất thường về tình trạng khí hậu trong năm 2023 (đường màu đỏ, được in đậm). Diện tích phủ của băng biển (hình 1a, 1b), nền nhiệt độ (hình 1c–1e) và diện tích rừng bị cháy ở Canada (hình 1f) hiện nằm ngoài số liệu ghi nhận lịch sử. Những bất thường này có thể là do cả biến đổi khí hậu và các yếu tố khác nữa. Nguồn và thông tin chi tiết bổ sung về từng chỉ báo này được cung cấp trong tệp bổ sung S1. Mỗi đường đồ thị trên biểu đồ tương ứng với một năm khác nhau, với màu xám đậm hơn tượng trưng cho những năm gần đây.

Chúng ta đang mạo hiểm vào lãnh vực khí hậu chưa được biết đến bao giờ. Nhiệt độ trung bình hàng ngày trên toàn cầu chưa bao giờ vượt quá mức 1,5 độ C (°C) so với mức của thời tiền công nghiệp cho đến trước năm 2000, và chỉ thỉnh thoảng vượt qua con số này kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, tính đến ngày 12/9/2023, đã có 38 ngày với nhiệt độ trung bình toàn cầu vượt trên mốc 1,5°C—nhiều hơn bất kỳ năm nào khác—và con số này có thể tiếp tục tăng. Điều đáng chú ý hơn nữa là biên độ rất lớn mà các chỉ báo của năm 2023 đang vượt quá mức cực đoan trong quá khứ (xem kỹ hình số 1). Tương tự, vào ngày 7/7/2023, diện tích phủ của băng biển ở Nam Cực giảm xuống mức tương đối hàng ngày thấp nhất kể từ khi có dữ liệu ghi nhận từ vệ tinh, ở mốc 2,67 triệu km2 dưới mức trung bình trong giai đoạn từ năm 1991–2023 (xem hình số 1a). Các biến số chỉ báo khác nằm ngoài phạm vi ghi nhận lịch sử bao gồm diện tích cháy rừng ở Canada (xem hình số 1f), có thể chỉ ra điểm bùng phát của một thời kỳ hỏa hoạn mới.

Tình trạng nóng lên toàn cầu do con người gây ra là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều hiện tượng cực đoan gần đây. Tuy nhiên, các quy trình cụ thể có liên quan dẫn đến hậu quả này có thể khá phức tạp. Ví dụ như: nhiệt độ nước biển Đại Tây Dương gia tăng có thể liên quan đến lượng mưa đổ xuống vùng Sahel (khu vực sinh thái chuyển tiếp giữa sa mạc Sahara và phía Nam, trải dài từ Đại Tây Dương ở phía tây đến biển Đỏ ở phía đông châu Phi) và cát bụi châu Phi (theo Wang và cộng sự nghiên cứu – năm 2012). Một tác nhân tiềm tàng khác chính là hơi nước (cũng là một loại khí nhà kính), được đưa vào tầng bình lưu do một vụ phun trào núi lửa dưới nước (theo Jenkins và cộng sự nghiên cứu – năm 2023). Sự gia tăng [nền nhiệt độ toàn cầu] gần đây cũng có thể liên quan đến việc thay đổi quy định bắt buộc sử dụng nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp trong ngành vận tải biển, vì các bụi khí gốc lưu huỳnh (sulfate aerosols) trôi nổi trong bầu khí quyển có khả năng trực tiếp phân tán ánh sáng mặt trời và tạo thành những đám mây phản quang (xin tra cứu tệp bổ sung S1 để xem phần thảo luận mở rộng). Nhiệt độ tăng đột ngột cũng có thể đến từ nguyên nhân pha El Niño bắt đầu thống trị [nền khí hậu toàn cầu]—một phần diễn ra tự nhiên của hệ thống khí hậu hành tinh này, và bản thân nó cũng có thể bị ảnh hưởng bởi hiện tượng biến đổi khí hậu nữa (theo Cai và cộng sự nghiên cứu – năm 2021). Trong mọi trường hợp, khi hệ thống khí hậu của Trái đất dịch chuyển khỏi các điều kiện [hài hòa và phù hợp] từng giúp con người phát triển, thì những bất thường như vậy có thể trở nên thường xuyên hơn và gây ra những tác động ngày càng thảm khốc (theo Xu và cộng sự nghiên cứu – năm 2020, theo Lenton và cộng sự nghiên cứu – năm 2023).

Xu hướng gần đây về các dấu hiệu chỉ báo quan trọng của hành tinh

Trên cơ sở dữ liệu ghi nhận qua chuỗi thời gian, 20 trong số 35 dấu hiệu sinh tồn hiện đang ở mức cực đoan kỷ lục (xem hình số 2 và số 3, cùng tra cứu bảng bổ sung S1). Như chúng tôi mô tả bên dưới, những dữ liệu này cho thấy việc tiếp tục theo đuổi các hoạt động kinh doanh như thường lệ [của nền văn minh con người], trớ trêu thay, lại gây áp lực chưa từng có lên hệ thống của hành tinh Trái Đất, dẫn đến nhiều biến số có liên quan đến khí hậu bị dịch chuyển vào lãnh vực khí hậu chưa được biết đến bao giờ (xem hình số 1 và số 3).

Hình số 2.
Chuỗi thời gian của các hoạt động của con người liên quan đến khí hậu. Dữ liệu thu được kể từ ấn bản nghiên cứu của Ripple và cộng sự (năm 2021), được hiển thị bằng màu đỏ (bản in màu xám đậm). Trong bảng (f), tình trạng suy giảm diện tích phủ cây rừng không tính đến khả năng tăng thêm của việc trồng rừng, và bao gồm việc mất rừng do bất kỳ nguyên nhân nào. Đối với bảng (h), thủy điện và năng lượng hạt nhân được hiển thị trong hình S1. Nguồn và thông tin chi tiết bổ sung về từng biến số được cung cấp trong tệp bổ sung S1.
Hình số 3.
Chuỗi thời gian của các phản ứng liên quan đến khí hậu. Dữ liệu thu được trước và sau ấn bản nghiên cứu của Ripple và công sự (năm 2021) được công bố, lần lượt được hiển thị bằng màu xám và đỏ (bản in màu xám đậm). Đối với diện tích rừng bị cháy (biểu đồ m) và tần suất các đợt lũ lụt gây thiệt hại trị giá hàng tỷ đô-la (biểu đồ o) ở Hoa Kỳ, các đường ngang màu đen hiển thị ước tính điểm thay đổi (changepoint) của mô hình, cho phép minh họa những thay đổi đột ngột (xem tệp bổ sung). Đối với các biến số khác có độ biến thiên tương đối cao, đường đồ thị biểu diễn xu hướng hồi quy cục bộ được hiển thị bằng màu đen. Các biến số được đo ở nhiều tần suất khác nhau (ví dụ: hàng năm, hàng tháng, hàng tuần). Các nhãn nằm trên trục x tương ứng với thời điểm giữa năm. Tần suất các đợt lũ lụt gây thiệt hại trị giá hàng tỷ đô la (biểu đồ o) có thể bị ảnh hưởng bởi mức độ bị tác động và tính dễ bị tổn thương của tài sản và con người bên cạnh yếu tố biến đổi khí hậu. Nguồn và thông tin chi tiết bổ sung về từng biến số được cung cấp trong tệp bổ sung S1.

Năng lượng

Có vẻ như sự phục hồi của “lĩnh vực năng lượng xanh” sau đại dịch COVID-19, mà nhiều người mong đợi, phần lớn đã không thành hiện thực (theo Zhang và cộng sự nghiên cứu – năm 2023). Thay vào đó, lượng phát thải carbon vẫn tiếp tục tăng cao và nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm ưu thế, với mức tiêu thụ than đá hàng năm gần như đạt mức cao nhất mọi thời đại là 161,5 exajoule (tỷ tỷ joules) vào năm 2022 (xem hình đồ thị số 2h). Mặc dù mức tiêu thụ năng lượng tái tạo (mặt trời và gió) đã tăng mạnh 17% trong khoảng thời gian từ năm 2021 đến năm 2022, nhưng vẫn thấp hơn khoảng 15 lần so với mức tiêu thụ năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (xem hình đồ thị số 2h). Động lực chính thúc đẩy các xu hướng kinh tế và tiêu thụ năng lượng chính là cuộc xâm lược Ukraine của Nga đang diễn ra. Điều này đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo ở Châu Âu nhưng cũng có thể khiến một số quốc gia chuyển từ sử dụng nguồn khí đốt do Nga cung cấp sang dùng than đá (theo nghiên cứu của Tollefson – năm 2022). Hiện tại, cuộc xung đột này đã góp phần làm tăng 107% trợ cấp tài chính cho nhiên liệu hóa thạch từ 531 tỷ USD vào năm 2021 lên 1.097 tỷ USD vào năm 2022 do giá năng lượng tăng cao (xem hình đồ thị số 2o). Mặc dù những khoản trợ cấp này có thể bảo vệ một phần người tiêu dùng khỏi nạn tăng giá nhiên liệu, nhưng chúng thường không nhắm đúng mục tiêu, cũng như thúc đẩy việc sử dụng nguồn năng lượng liên quan đến nhiên liệu hóa thạch và thu được lợi nhuận nhiều hơn so với các giải pháp thay thế ít carbon (theo nghiên cứu của Muta và Erdogan – năm 2023).

Rừng

Từ năm 2021 đến năm 2022, tỷ lệ mất độ che phủ của thảm cây rừng trên toàn cầu đã giảm 9,7%, xuống còn 22,8 triệu hecta (ha) mỗi năm (xem hình đồ thị số 2f). Tương tự, tỷ lệ mất rừng Amazon của Brazil đã giảm 11,3%, xuống còn 1,16 triệu hecta mỗi năm (xem hình đồ thị số 2g), và mức giảm tiếp theo có thể sẽ xảy ra do cuộc bầu cử tổng thống mới của Brazil và một số nghị định pháp lý được công bố gần đây (theo Vilani và cộng sự nghiên cứu – năm 2023). Tuy nhiên, nhân loại vẫn chưa thể chấm dứt và đẩy lùi nạn phá rừng cho đến năm 2030, bất chấp cam kết của hơn 100 nhà lãnh đạo thế giới vào năm 2021 tại COP26 (xem UNEP 2022a). Hơn nữa, các khu rừng ngày càng bị đe dọa bởi những vòng lặp phản hồi khí hậu mạnh mẽ liên quan đến nhiều quá trình như thiệt hại do côn trùng, cây chết và cháy rừng (theo nghiên cứu của Flores và Staal – năm 2022, nghiên cứu của Ripple và cộng sự – năm 2023). Ví dụ như: vụ cháy rừng kỷ lục lịch sử ở Canada, thiêu rụi 16,6 triệu hecta trong năm nay tính đến ngày 13 tháng 9 (xem hình đồ thị số 1f), một phần có liên quan đến biến đổi khí hậu. Sự kiện này dẫn đến lượng phát thải hơn một tỷ tấn carbon dioxide (theo thống kế của Copernicus – năm 2023), một con số đáng kể, vì tổng lượng phát thải khí nhà kính của Canada vào năm 2021 là khoảng 0,67 tỷ đương lượng carbon dioxide (theo báo cáo Environment and Climate Change Canada – năm 2023). Hiện chưa rõ lượng khí thải khổng lồ như vậy có thể được tái hấp thu nhanh như thế nào thông qua quá trình phục hồi sau cháy rừng, và rủi ro thực sự chính là mức độ nghiêm trọng của các đám cháy rừng ngày càng tăng sẽ gây ra tổn thất carbon không thể phục hồi trong một tương lai của hành tinh đang nóng dần lên (theo Bowman và cộng sự nghiên cứu – năm 2021).

Nhiệt độ và mật độ khí nhà kính trung bình toàn cầu

Trên cơ sở số liệu thống kê từ đầu năm 2023 đến thời điểm này, mật độ của ba loại khí gây hiệu ứng nhà kính quan trọng là carbon dioxide, methane và oxit nitơ (nitrous oxide) đều ở mức cao kỷ lục trong bầu khí quyển (xem hình đồ thị số 3a–3c). Mật độ khí carbon dioxide trung bình toàn cầu hiện nay là khoảng 420 phần triệu (ppm), cao hơn nhiều so với giới hạn hành tinh được đề xuất là 350 phần triệu (theo Rockström và cộng sự nghiên cứu – năm 2009). Ngoài ra, năm 2023 có xu hướng trở thành một trong những năm có nền nhiệt trung bình nóng kỷ lục (theo số liệu của hình đồ thị số 1e và 3d). Mặc dù phát thải khí nhà kính liên quan đến nhiên liệu hóa thạch là nguyên nhân chính làm gia tăng nhiệt độ, nhưng sự sụt giảm phát thải bụi khí sulfur dioxide trên toàn cầu có thể là một yếu tố góp phần vào vấn đề trên (xem hình trong tệp bổ sung S2). Sulphur dioxide tạo thành bụi gốc sunfat trong khí quyển, là tác nhân phản hồi bức xạ nhiệt, tạo hiệu ứng làm mát mạnh nhất do con người tạo ra, che giấu một phần nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên của khí nhà kính (xem tệp bổ sung S1 để thảo luận mở rộng).

Đại dương và băng giá

Độ axit trong nước biển của đại dương, độ dày sông băng, và lượng băng khối ở Greenland đều giảm xuống mức thấp kỷ lục (xem hình đồ thị số 3g, 3j và 3l), trong khi mực nước biển dâng và hàm lượng nhiệt chứa trong lòng các đại dương tăng lên mức cao kỷ lục (xem hình đồ thị số 3f, 3h). Tình trạng gia tăng hàm lượng nhiệt và gia tăng nhanh chóng nhiệt độ bề mặt nước biển (xem hình đồ thị số 1c, 1d) đặc biệt đáng lo ngại, vì chúng có thể gây ra nhiều tác động nghiêm trọng, bao gồm hải sinh biến mất, các rạn san hô chết vì bị tẩy trắng, và cường độ của các cơn bão nhiệt đới ngày càng lớn (theo Reid và cộng sự nghiên cứu – năm 2009). Ngoài ra còn có mối lo ngại ngày càng tăng về việc Dòng tuần hoàn xuyên kinh tuyến Đại Tây Dương (Atlantic meridional overturning circulation – AMOC) có thể vượt qua điểm tới hạn (tipping point) và bắt đầu sụp đổ trong thế kỷ này, có thể là từ năm 2025 đến năm 2095 (theo nghiên cứu của Ditlevsen và Ditlevsen – năm 2023), và điều này sẽ làm thay đổi đáng kể các mô hình nhiệt độ và lượng mưa toàn cầu với những hậu quả có hại nghiêm trọng tiềm tàng đối với hệ sinh thái và xã hội loài người, bao gồm cả việc các bể chứa carbon tự nhiên bị suy giảm (theo nghiên cứu của Armstrong McKay và cộng sự – năm 2022).

Tác động khí hậu và thời tiết cực đoan

Biến đổi khí hậu đang góp phần đáng kể gây ra đau khổ cho con người (hình số 4). Các tác động liên quan đến khí hậu trong năm 2022 bao gồm một trận lũ lụt gây thiệt hại trị giá hàng tỷ đô la khác ở Hoa Kỳ, xảy ra ở Kentucky và Missouri trong khoảng thời gian từ 26 đến 28 tháng 7 và tần suất những ngày cực nóng cao thứ ba trong lịch sử ghi nhận khí tượng (xem hình đồ thị số 3o, 3p). Từ năm 2021 đến năm 2022, diện tích rừng bị cháy trên toàn cầu giảm 28% (từ 9,34 triệu hecta xuống 6,72 triệu hecta), nhưng hoạt động cháy rừng ở Hoa Kỳ lại tăng 6,3% (từ 2,88 triệu hecta lên 3,07 triệu hecta) so với cùng kỳ (xem hình đồ thị số 3m, 3n). Nhiều tác động của khí hậu dự kiến sẽ còn nghiêm trọng hơn trong những năm tới, và chúng ta có thể đã phải chứng kiến sự gia tăng đột ngột của một số hình thái thời tiết khắc nghiệt nhất định, có thể vượt quá tốc độ gia tăng nền nhiệt độ (xem số liệu trong biểu đồ số 3m, 3o, S3, S4; tham khảo nghiên cứu của Calvin – năm 2020).

Hình số 4.
Đây là chuỗi ảnh mô tả tác động của các thảm họa liên quan đến khí hậu. Hàng đầu tiên (từ trái sang phải): Các chủ hộ phân loại mảnh vụn sau khi trận cháy rừng phá hủy nhà của họ ở bang California (Hoa Kỳ, 2008; FEMA/Michael Mancino), “Một người lính vệ binh [quốc gia] cõng một phụ nữ trong nước lũ ngập đến thắt lưng” (Hoa Kỳ, 2017; Zachary West/Vệ binh Quốc gia; CC BY 2.0). Hàng thứ hai: “các cô gái trẻ gặp bão cát trên đường đến trường” (Afghanistan, 2019, Solmaz Daryani/Climate Visuals Countdown; Creative Commons), “người phụ nữ trưởng thành ngồi trong nhà, ngập trong nước sâu, và hút thuốc” (Brazil, 2015; Fabrice Fabola, CC BY-SA 2.0). Hàng thứ ba: hậu quả của Bão Idai (Mozambique, 2019; Denis Onyodi: IFRC/DRK/Climate Centre, CC BY-NC 2.0), “người dân đi bộ trên con đường rải đầy mảnh vụn sau khi Siêu bão Haiyan tàn phá thành phố Tacloban” (Philippines, 2013; Erik de Castro/Reuters; CC BY 2.0). Tất cả các trích dẫn đều lấy từ dự án Climate Visuals (https://climatevisuals.org). Xem tệp bổ sung S1 để biết thêm thông tin chi tiết và nhiều hình ảnh hơn.

Trong năm 2023, biến đổi khí hậu có thể đã góp phần gây ra một số hiện tượng thời tiết cực đoan và thảm họa. Một số sự kiện trong số này cho thấy các hiện tượng khí hậu cực đoan đang đe dọa những khu vực rộng lớn hơn, vốn thường không xảy ra thứ như thế này; ví dụ như, đợt lũ lụt nghiêm trọng ở miền Bắc Trung Quốc, xung quanh thủ đô Bắc Kinh, đã giết chết ít nhất 33 người. Các thảm họa khác gần đây bao gồm lũ quét và lở đất chết người ở miền Bắc Ấn Độ, các đợt nắng nóng kỷ lục ở Hoa Kỳ, và một cơn bão dữ dội đặc biệt ở Địa Trung Hải khiến hàng nghìn người thiệt mạng, chủ yếu ở Libya (xem bảng danh sách số 1 dưới đây để biết thông tin chi tiết và nguyên nhân của những thảm họa này). Khi những tác động như vậy tiếp tục gia tăng, chúng ta sẽ cần có thêm kinh phí để bù đắp những mất mát và thiệt hại liên quan đến khí hậu ở các nước đang phát triển. Quỹ tài chính toàn cầu mới thành lập của Liên Hợp Quốc về hỗ trợ bù đắp tổn thất và thiệt hại được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu COP27 là một bước phát triển đầy hứa hẹn, nhưng thành công của quỹ này sẽ cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các nước giàu có.

Bảng Danh sách số 1. Các thảm họa thời tiết kể từ Tháng 11/2022.
  • Từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2022: Những đợt nắng nóng kỷ lục ở Argentina và Paraguay đã góp phần gây ra tình trạng mất điện, cháy rừng và mất mùa. Nền nhiệt độ cực cao này là do biến đổi khí hậu, với ước tính góp phần tăng nhiệt khoảng 60 lần.
  • Từ tháng 12 năm 2022–tháng 3 năm 2023: Lượng mưa lớn đổ xuống do các dòng sông khí quyển gây ra đã dẫn đến nhiều trận lũ lụt ở miền Tây Hoa Kỳ. Có ít nhất 22 người thiệt mạng, và thiệt hại về tài sản ước tính lên tới 3,5 tỷ USD. Biến đổi khí hậu có thể làm tăng khả năng xảy ra những trận lũ lụt thảm khốc như vậy, mặc dù ảnh hưởng của nó đối với những cơn bão cụ thể này chưa rõ ràng.
  • Tháng 2 năm 2023: Bão Gabrielle gây ra một lượng mưa cực lớn ở Te Ika-a-Māui (Đảo Bắc của Aotearoa New Zealand), có khả năng gây thiệt hại hàng tỷ đô la và khiến 225.000 ngôi nhà bị mất điện. Lượng mưa dữ dội này có thể một phần là do nền khí hậu đang ấm lên.
  • Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2023: Các mức nhiệt độ kỷ lục được ghi nhận ở nhiều vùng ở Đông Nam Á, Trung Quốc và Nam Á. Tình trạng nắng nóng gay gắt đã gây ra nhiều ca tử vong, và trường học ở Ấn Độ phải đóng cửa, đồng thời khiến hơn 100 học sinh phải điều trị vì mất nước ở Philippines. Có lẽ ít nhất một phần của sự kiện này là do biến đổi khí hậu. Ví dụ như, biến đổi khí hậu đã làm tăng khả năng một sự kiện như vậy xảy ra ở Bangladesh và Ấn Độ lên ít nhất là 30 lần.
  • Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2023: Cháy rừng dữ dội ở Canada đã thiêu rụi khoảng 10 triệu hecta, lúc cao điểm khiến 30.000 người phải di dời chỗ ở và khiến chất lượng không khí ngày càng tồi tệ trên phần lớn lãnh thổ Canada và Hoa Kỳ. Những vụ cháy rừng cực độ này một phần là do biến đổi khí hậu, mặc dù có thể đến từ nhiều yếu tố liên quan khác.
  • Tháng 5 năm 2023: Bão nhiệt đới Mocha được cho là đã giết chết ít nhất 145 người ở Myanmar và ảnh hưởng đến khoảng 800.000 người sống trong khu vực bão đổ bộ. Biến đổi khí hậu có thể đã khiến những cơn bão như vậy trở nên dữ dội hơn.
  • Từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2023: Bão nhiệt đới Mawar đã gây lũ lụt và mất điện ở nhiều nơi tại đảo Guam. Mawar là cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận ở Bắc Bán Cầu vào tháng 5. Biến đổi khí hậu có thể làm tăng cường độ của các cơn bão nhiệt đới (theo nghiên cứu của Wu và cộng sự – năm 2022).
  • Tháng 6 năm 2023: Nắng nóng chết người khiến hơn chục người tử vong ở miền Nam và Trung Tây Hoa Kỳ. Biến đổi khí hậu đang dẫn đến sự gia tăng tần suất và thời gian của các đợt nắng nóng như vậy.
  • Tháng 7 năm 2023: Có tới 6 người thiệt mạng ở vùng Tây Nam Nhật Bản vì lượng mưa cực lớn gây lũ lụt và lở đất. Biến đổi khí hậu có thể làm cho những đợt mưa lớn như vậy trở nên nghiêm trọng hơn. Vài ngày sau, lũ lụt và lở đất, có thể một phần liên quan đến biến đổi khí hậu, đã giết chết hơn 26 người và khiến hàng nghìn người phải sơ tán ở Hàn Quốc.
  • Tháng 7 năm 2023: Trận mưa gió mùa lớn đã gây ra lũ quét và lở đất ở miền Bắc Ấn Độ, khiến hơn 100 người thiệt mạng. Biến đổi khí hậu có thể khiến gió mùa ở khu vực này biến đổi mạnh hơn, gây ra lở đất và lũ lụt thường xuyên. Mưa gió mùa cường độ lớn cũng gây thiệt hại cho cây lúa ở Ấn Độ, làm dấy lên mối lo ngại về giá lương thực và nền an ninh lương thực tren toàn cầu, đồng thời dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu các giống lúa không thuộc chủng basmati.
  • Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2023: Nắng nóng cực độ ở Hoa Kỳ đã giết chết ít nhất 147 người. Trong trường hợp không có biến đổi khí hậu, đợt nắng nóng cực độ vào tháng 7 năm 2023 ở Hoa Kỳ sẽ rất khó xảy ra.
  • Từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2023: Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc trải qua trận mưa lớn nhất trong ít nhất 140 năm, dẫn đến đợt lũ lụt lớn ảnh hưởng đến gần 1,29 triệu người, làm hư hại 147.000 ngôi nhà và khiến ít nhất 33 người thiệt mạng. Lũ lụt dữ dội có thể trở nên phổ biến hơn do biến đổi khí hậu.
  • Tháng 8 năm 2023: Tại Hawaii, Hoa Kỳ, cháy rừng thảm khốc trên đảo Maui đã giết chết ít nhất 111 người và khiến hơn 1.000 người có thể mất tích tính đến ngày 18 tháng 8 năm 2023. Biến đổi khí hậu có thể làm giảm lượng mưa và tăng nhiệt độ ở khu vực này, có khả năng góp phần gây ra những vụ cháy như vậy.
  • Tháng 9 năm 2023: Bão Daniel gây ra đợt lũ lụt nghiêm trọng ở Libya và một số khu vực ở Đông Nam Châu Âu, khiến hàng nghìn người thiệt mạng và thiệt hại hơn 2 tỷ USD. Biến đổi khí hậu có thể làm tăng cường độ của những cơn bão như vậy.

Lưu ý: Chúng tôi liệt kê nhiều thảm họa gần đây, mà có thể ít nhất một phần có liên quan đến biến đổi khí hậu. Danh sách này không nhằm mục đích liệt kê đầy đủ tất cả các thảm họa khí hậu xảy ra trên Trái Đất trong năm 2023. Do tính chất gần đây của những sự kiện này nên nguồn thông tin của chúng tôi thường bao gồm các bài báo trên phương tiện truyền thông. Đối với mỗi sự kiện, chúng tôi thường cung cấp các tài liệu tham khảo chỉ ra rằng, khả năng hoặc cường độ của sự kiện đó có thể tăng lên vì tình trạng biến đổi khí hậu do con người gây ra. Tài liệu tham khảo đến các bài báo khoa học được cung cấp trực tiếp trong bảng danh sách trên, và liên kết đến các bài báo được cung cấp trong tệp bổ sung S1. Một số thảm họa này có thể ít nhất một phần là do những thay đổi liên quan đến khí hậu trong tốc độ và hình thái của Dòng Tia (Jet Stream) (theo nghiên cứu của Stendel và cộng sự – năm 2021, nghiên cứu của Rousi và cộng sự – năm 2022).

Các lưu ý mang tính cảnh báo từ giới khoa học

Được thúc đẩy bởi các sự kiện và xu hướng gần đây, chúng tôi tiếp tục đưa ra các cảnh báo và khuyến nghị cụ thể liên quan đến các chủ đề từ an ninh lương thực đến nền công lý khí hậu. Những nỗ lực phối hợp trong từng lĩnh vực này có thể giúp hỗ trợ một chương trình nghị sự rộng hơn tập trung vào một chính sách khí hậu toàn diện và công bằng.

Lĩnh vực Kinh tế

Tăng trưởng kinh tế, như thường được nhiều quốc gia theo đuổi, khó có thể cho phép chúng ta đạt được các mục tiêu xã hội, khí hậu và bảo đảm đa dạng sinh học. Thách thức cơ bản nằm ở khó khăn trong việc tách rời tăng trưởng kinh tế khỏi các tác động có hại đến môi trường (xem biểu đồ hình số 5A). Mặc dù những tiến bộ công nghệ và cải tiến hiệu suất có thể góp phần giảm thiểu tác động ở một mức độ nào đó, nhưng chúng thường không thể giảm thiểu dấu chân sinh thái tổng thể của các hoạt động kinh tế (theo nghiên cứu của Hickel và cộng sự – năm 2021). Các tác động rất khác nhau tùy theo mức độ giàu có của nền kinh tế; chẳng hạn như vào năm 2019, 10% nguồn phát thải hàng đầu chịu trách nhiệm cho 48% lượng khí thải toàn cầu, trong khi 50% nguồn phát thải ở bên dưới danh sách chỉ chịu trách nhiệm cho 12% tổng lượng khí thải mà thôi (theo nghiên cứu của Chancel – năm 2022). Do đó, chúng ta cần thay đổi nền kinh tế thành một hệ thống hỗ trợ đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho tất cả mọi người thay vì thói tiêu dùng quá mức của người giàu (theo nghiên cứu của O’Neill và cộng sự – năm 2018).

Hình số 5.
Các chủ đề đặc biệt về hành động vì khí hậu. Nhiều mô hình giả định rằng tăng trưởng GDP hầu như có thể được tách rời khỏi khí thải và các tác động môi trường liên quan đến tiêu dùng khác (a), và rằng các phương pháp thu hồi carbon có thể được mở rộng nhanh chóng (b). Nếu những giả định này không thực tế và việc sử dụng than cũng như các nhiên liệu hóa thạch khác không được cắt giảm ngay lập tức (c), thì các vòng lặp phản hồi trong Hệ thống của Trái Đất (d) có thể dẫn đến việc các tác động khí hậu sẽ tăng tốc nhanh chóng, bao gồm tình trạng suy dinh dưỡng (e) và thảm họa khí hậu, sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia nghèo có lượng phát thải thấp trong lịch sử phát triển (f). Xem tệp bổ sung S1 để biết thông tin chi tiết và nguồn dữ liệu. Nguồn ảnh: Boris Radosavljevic (CC BY 2.0).

Ngăn chặn Tình trạng Ấm lên

Tỉ lệ gia tăng các thảm họa khí hậu và các tác động khác mà chúng ta đang chứng kiến phần lớn là hậu quả của việc phát thải khí nhà kính trong quá khứ và hiện tại. Để giảm thiểu lượng khí thải trong quá khứ và ngăn chặn hiện tượng nóng lên toàn cầu, các nỗ lực phải hướng tới việc loại bỏ khí thải từ nhiên liệu hóa thạch và thay đổi cách sử dụng đất, cũng như tăng cường cô lập carbon bằng các giải pháp khí hậu dựa vào thiên nhiên. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải khám phá các chiến lược khả thi khác để loại bỏ hiệu quả lượng carbon dioxide bổ sung, điều có thể góp phần làm mát hành tinh lâu dài. Các công nghệ phát thải âm đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, vẫn bất ổn về tính hiệu quả, khả năng mở rộng cũng như các tác động đến môi trường và xã hội (xem hình biểu đồ số 5b; theo nghiên cứu của Anderson và Peters – năm 2016). Vì vậy, chúng ta không nên dựa vào các kỹ thuật loại bỏ carbon chưa được chứng minh hữu dụng và hiệu quả. Mặc dù các nỗ lực nghiên cứu cần được đẩy nhanh, nhưng việc phụ thuộc nhiều vào các chiến lược loại bỏ carbon quy mô lớn trong tương lai tại thời điểm này có thể tạo ra nhận thức sai lầm về mức an toàn và trì hoãn nhiều hành động giảm thiểu cấp thiết cần thiết để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay.

Ngừng tiêu thụ than đá

Ngoài những tác động hủy diệt đối với hệ sinh thái và sức khỏe toàn cầu, than đá còn tạo ra hơn 80% lượng khí carbon dioxide được bổ sung vào bầu khí quyển kể từ năm 1870, và chiếm khoảng 40% lượng phát thải carbon dioxide hiện nay (theo nghiên cứu của Burke và Fishel – năm 2020). Tính đến năm 2022, lượng tiêu thụ than đá trên toàn cầu gần đạt mức kỷ lục (xem hình biểu đồ số 2h). Năm 2021, lượng khí thải carbon dioxide liên quan đến than đá đạt mức cao nhất ở Trung Quốc (chiếm 53,1%), tiếp theo là Ấn Độ (chiếm 12,0%) và Hoa Kỳ (chiếm 6,7%; xem biểu đồ trong hình số 5c). Việc sử dụng than đá ở Trung Quốc đã tăng nhanh trong những thập kỷ qua, và quốc gia này hiện vẫn đóng góp gần 1/3 tổng lượng khí thải carbon dioxide và methane từ nhiên liệu hóa thạch (xem bảng bổ sung S2; theo nghiên cứu của Normile – năm 2020). Để ứng phó với tình trạng này, chúng tôi ủng hộ Liên minh Cung ứng Năng lượng Đưa Than đá vào Quá khứ (Powering Past Coal Alliance) và khuyến nghị thông qua Hiệp ước Quốc tế về Loại bỏ Than Đá (international Coal Elimination Treaty), để loại bỏ dần than đá, và rộng hơn là, Hiệp ước Không Phổ biến Nhiên liệu Hóa thạch (Fossil Fuel Non-Proliferation Treaty) (theo nghiên cứu của van Asselt và Newell – năm 2022). Những hiệp ước này có thể hỗ trợ các nước nghèo hơn trong việc chuyển đổi khỏi than đá và các nhiên liệu hóa thạch khác, bao gồm tài trợ để xây dựng năng lực sản xuất và duy trì năng lượng tái tạo, cũng như đào tạo lại và chuyển đổi công nhân khỏi ngành khai thác nhiên liệu hóa thạch.

Vòng lặp phản hồi

Các vòng phản hồi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ giữa khí thải và hiện tượng nóng lên toàn cầu. Ví dụ như, nền nhiệt ấm lên làm cho đất đóng băng vĩnh cửu tan rã, thải ra khí methane và carbon dioxide, dẫn đến càng nóng lên hơn nữa (xem biểu đồ trong hình số 5d). Do đó, hiện tượng tăng cường các vòng lặp phản hồi sẽ khuếch đại tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến tình trạng nóng thêm. Vì vậy, việc thấu hiểu các vòng lặp phản hồi và sự tương tác của chúng có thể cung cấp nhiều chiến lược thích ứng và giảm thiểu khí hậu. Bất chấp tầm quan trọng của chúng, sự kết hợp của nhiều vòng lặp phản hồi khuếch đại vẫn chưa được hiểu rõ, và sức mạnh tiềm ẩn của một số vòng lặp phản hồi nguy hiểm vẫn rất không chắc chắn (theo nghiên cứu của Ripple và cộng sự – năm 2023). Vì sự không chắc chắn này, chúng tôi kêu gọi một báo cáo đặc biệt của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) tập trung vào các vòng lặp phản hồi khí hậu nguy hiểm, các điểm tới hạn và—chỉ là một biện pháp phòng ngừa—về kịch bản có khả năng, tuy ít xảy ra, về tình trạng biến đổi khí hậu không kiểm soát được nữa, hoặc thảm họa tận thế do biến đổi khí hậu.

An ninh lương thực và tình trạng suy dinh dưỡng

Sau nhiều năm giảm bớt, tỷ lệ suy dinh dưỡng lại hiện đang gia tăng trở lại (xem biểu đồ trong hình số 5e). Vào năm 2022, ước tính có khoảng 735 triệu người phải đối mặt với nạn đói kinh niên—tăng khoảng 122 triệu người kể từ năm 2019 (theo FAO và cộng sự – năm 2023). Sự gia tăng này đã khiến nhân loại không thể đạt được mục tiêu xóa nạn đói vào năm 2030, do nhiều yếu tố, bao gồm cả hiện tượng khí hậu cực đoan, suy thoái kinh tế và xung đột vũ trang (theo FAO và cộng sự – năm 2023). Biến đổi khí hậu đã làm sụt giảm khả năng tăng năng suất nông nghiệp toàn cầu (theo Ortiz-Bobea và cộng sự nghiên cứu – năm 2021), do đó, nguy cơ nạn đói sẽ gia tăng nếu không có hành động ngay lập tức để giải quyết vấn đề khí hậu. Đặc biệt, có thể xuất hiện những rủi ro nghiêm trọng và bị đánh giá thấp trong tương lai về tình trạng thất thu vụ mùa hàng loạt do ảnh hưởng của dao động Dòng Tia (Jest Stream) không bền vững ngày càng tăng (theo Kornhuber và cộng sự nghiên cứu – năm 2023). Do nguy cơ mất mùa lớn xảy ra đồng thời ngày càng tăng ở nhiều khu vực trên toàn cầu, chúng ta cần có những nỗ lực tập trung vào việc thích ứng để cải thiện khả năng phục hồi của cây trồng và khả năng chống chịu nắng nóng, hạn hán và các tác nhân gây áp lực khác của khí hậu (theo Raza và cộng sự nghiên cứu – năm 2019). Việc chuyển sang chế độ ăn dựa trên thực vật, đặc biệt là ở các quốc gia giàu, có thể cải thiện tình hình an ninh lương thực toàn cầu và giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu (xem biểu đồ trong hình số 2d; theo nghiên cứu của Cassidy và cộng sự – năm 2013).

Công lý

Tác động của biến đổi khí hậu vốn đã là thảm họa đối với nhiều người. Tuy nhiên, những tác động này không diễn ra đồng đều trên toàn cầu. Thay vào đó, chúng ảnh hưởng một cách không cân xứng đến những người nghèo nhất trên thế giới, những người mà, trớ trêu thay, lại đóng vai trò ít nhất trong quá trình gây ra vấn đề này (xem biểu đồ trong hình số 5f; theo nghiên cứu của Harlan và cộng sự – năm 2015). Để đạt được công bằng kinh tế xã hội và hạnh phúc toàn cầu của con người, điều quan trọng là phải phấn đấu được mức tiêu thụ năng lượng và tài nguyên đồng bộ trên bình quân đầu người toàn thế giới. Điều này đòi hỏi phải nỗ lực hướng tới mức tiêu thụ năng lượng và tài nguyên cân bằng và công bằng cho cả bán cầu bắc (các quốc gia giàu) và bán cầu nam (các quốc gia nghèo) (theo nghiên cứu của Hickel và cộng sự – năm 2021).

Kết luận

Tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu ngày càng nghiêm trọng hơn và những khả năng như sự sụp đổ xã hội trên toàn thế giới là có thể xảy ra và chưa được khám phá hết mối rủi ro (theo Kemp và cộng sự nghiên cứu – năm 2022). Vào cuối thế kỷ này, ước tính có khoảng từ 3 đến 6 tỷ người—khoảng một phần ba đến một nửa dân số thế giới—có thể nhận ra bản thân họ bị nằm ngoài vùng môi trường có thể sống được, phải đối mặt với nắng nóng gay gắt, nguồn thức ăn hạn chế và tỷ lệ tử vong tăng cao vì các tác động của biến đổi khí hậu (theo nghiên cứu của Lenton và cộng sự – năm 2023). Vấn đề lớn cần giải pháp lớn. Do đó, chúng ta phải thay đổi quan điểm của mình về tình trạng khẩn cấp khí hậu, từ việc nhìn nhận một vấn đề môi trường riêng biệt sang mối đe dọa mang tính hệ thống và hiện hữu. Mặc dù tình trạng nóng lên toàn cầu có sức tàn phá khủng khiếp, nhưng nó chỉ là một khía cạnh nhỏ của cuộc khủng hoảng môi trường lớn lao, ngày càng leo thang và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, mà chúng ta đang phải đối mặt (ví dụ: tình trạng suy giảm đa dạng sinh học, khan hiếm nước ngọt, đại dịch). Chúng ta cần các chính sách tập trung vào các vấn đề cơ bản về tình trạng lạm dụng hệ sinh thái, khi nhu cầu vô hạn của con người đối với tài nguyên trên Trái Đất dẫn đến việc khai thác quá mức hành tinh của chúng ta và khiến tính đa dạng sinh học bị suy giảm (xem biểu đồ trong hình số 5a, S5; theo nghiên cứu của McBain và cộng sự – năm 2017). Chừng nào nhân loại còn tiếp tục gây áp lực cực lớn lên Trái Đất, thì mọi giải pháp cố gắng dành cho việc giải quyết vấn đề khí hậu sẽ chỉ phân phối lại áp lực này mà thôi.

Để giải quyết tình trạng khai thác quá mức trên hành tinh của chúng ta, chúng tôi thách thức quan niệm phổ biến về sự tăng trưởng vô tận và mức tiêu thụ quá mức của các nước và cá nhân giàu có là không bền vững và bất công (theo nghiên cứu của Rockström và cộng sự – năm 2023). Thay vào đó, chúng tôi ủng hộ việc giảm tiêu thụ tài nguyên quá mức; giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải trong một nền kinh tế có tính tuần hoàn hơn; và ưu tiên sự thăng hoa và bền vững của con người. Chúng tôi nhấn mạnh đến nền công lý về khí hậu và phân bổ công bằng chi phí cũng như lợi ích của các hành động vì khí hậu, đặc biệt đối với những cộng đồng dễ bị tổn thương (theo nghiên cứu của Gupta và cộng sự – năm 2023). Chúng tôi kêu gọi chuyển đổi nền kinh tế toàn cầu để ưu tiên phúc lợi cho con người và cung cấp khả năng phân phối nguồn tài nguyên được công bằng hơn (theo nghiên cứu của Hickel và cộng sự – năm 2021). Chúng tôi cũng kêu gọi ổn định và giảm dần dân số nhân loại bằng công bằng giới tính, thông qua việc kế hoạch hóa gia đình tự nguyện và bằng cách hỗ trợ giáo dục cũng như trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái, giúp giảm tỷ lệ sinh và nâng cao mức sống (theo nghiên cứu của Bongaarts và O’Neill – năm 2018). Những chiến lược có ý thức về môi trường và công bằng về mặt xã hội này đòi hỏi những chuyển đổi sâu rộng và toàn diện về lâu dài, có thể đạt được thông qua các bước tiến dần dần nhưng có ý nghĩa trong ngắn hạn (tức là chuyển đổi từ từ và triệt để; theo nghiên cứu của Halpern và Mason – năm 2015).

Với tư cách là các nhà khoa học, chúng tôi ngày càng được yêu cầu phải nói cho công chúng biết sự thật về những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang đối mặt bằng những thuật ngữ đơn giản và rõ ràng. Sự thật là chúng tôi bị sốc trước mức độ khốc liệt của các hiện tượng thời tiết cực đoan vào năm 2023. Chúng tôi lo sợ về chốn vô dịnh chưa được biến đến mà chúng ta hiện đã bước vào. Các điều kiện sẽ trở nên rất khó khăn và có khả năng không thể quản lý được đối với những vùng rộng lớn trên thế giới, với mức nóng lên dự kiến là 2,6°C trong suốt thế kỷ này, ngay cả khi các cam kết giảm phát thải quốc gia tự đề xuất của Hiệp định khí hậu Paris được đáp ứng (xem UNEP 2022b). Chúng tôi cảnh báo về sự sụp đổ tiềm tàng của các hệ thống tự nhiên và nền kinh tế xã hội trong một thế giới nơi chúng ta sẽ phải đối mặt với sức nóng không thể chịu nổi, các hiện tượng thời tiết cực đoan thường xuyên, tình trạng thiếu lương thực và nước ngọt, mực nước biển dâng cao, nhiều dịch bệnh mới nổi lên, tình trạng bất ổn xã hội và xung đột địa chính trị gia tăng. Sự đau khổ to lớn do cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu đã hiện diện ở đây rồi, và hiện chúng ta đã vượt qua nhiều ranh giới an toàn và công bằng của hệ thống Trái Đất, đe dọa sự ổn định của các hệ thống hỗ trợ sự sống trên hành tinh này (theo nghiên cứu của Rockström và cộng sự – năm 2023). Vì chúng ta sẽ sớm chứng kiến hậu quả của việc không đáp ứng được mục tiêu 1,5°C đầy tham vọng của Hiệp định Khí hậu Paris, nên tầm quan trọng của việc hạn chế ngay việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và ngăn chặn mỗi lần tăng thêm 0,1°C của hệ số nóng lên toàn cầu trong tương lai là không thể phớt lờ. Thay vì chỉ tập trung vào việc giảm lượng khí thải carbon và tình trạng biến đổi khí hậu, việc nêu rõ và giải quyết vấn đề cơ bản của tình trạng lạm dụng hệ sinh thái sẽ giúp chúng ta có cơ hội tốt nhất để vượt qua những thách thức này về lâu dài. Đây là thời điểm chúng ta phải tạo ra được khác biệt sâu sắc cho toàn bộ sự sống trên Trái Đất, và chúng ta phải đón nhận điều đó với lòng can đảm và quyết tâm không ngừng nghỉ để kiến tạo một di sản của sự đổi thay, có thể đứng vững trước thách thức của thời gian.

HÀNH TINH TITANIC

là một kênh thông tin phi lợi nhuận và độc lập. Chúng tôi không nhận đăng tin quảng cáo hoặc bất cứ nguồn tài trợ nào từ các chính phủ hay tập đoàn kinh tế, để giữ vững quan điểm nói thẳng, nói thật và nói chính xác về cuộc khủng hoảng khí hậu cho Cộng đồng dân cư Việt Nam – một trong những quốc gia sẽ bị tác động nặng nề vì cuộc khủng hoảng ĐỘT BIẾN KHÍ HẬU. Vì thế, mỗi khoản tiền bạn đọc đóng góp cho chúng tôi đều sẽ giúp bảo vệ và phát triển kênh thông tin duy nhất bằng Tiếng Việt về biến đổi khí hậu này. Xin cảm ơn.

ỦNG HỘ HÀNH TINH TITANIC

Hiển thị ý kiến phản hồi (0)

Phần chia sẻ ý kiến

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Bài liên quan

LỜI KHUYÊN, CẦU NGUYỆN & CHỮA LÀNH

LIỆU PHÁP HÀNG ĐẦU CHO BỆNH ẢO TƯỞNG CHÍNH LÀ SỰ TUYỆT VỌNG

“THE FIRST CURE FOR ILLUSION IS DESPAIR” – Philip Elliot Slater (1927-2013), nhà văn và nhà xã hội học người Mỹ. “Liệu pháp hàng đầu cho bệnh ảo tưởng...

Đã đăng ở by hanhtinhtitanic
Khí Carbon Dioxide

415 PPM (PHẦN TRIỆU)

Đó là con số mật độ CO₂ mà những công cụ quan trắc đặt ở trung tâm Thái Bình Dương, trên đỉnh núi Mauna Loa cao hơn 4.100 mét của đảo Hawaii (Mỹ) ghi nhận được trong bầu khí quyển...

Đã đăng ở by hanhtinhtitanic