Giới khoa học cho biết các kịch bản tồi tệ nhất về hiện tượng nóng lên toàn cầu có thể cần được chỉnh sửa, nhờ hiểu biết rõ hơn về vai trò của các đám mây.
Dữ liệu chạy mô hình nghiên cứu gần đây cho thấy nền khí hậu nhạy cảm đáng kể hơn đối với lượng phát thải carbon so với người ta nghĩ trước đây, và giới chuyên gia nói rằng các dự báo có khả năng trở thành “mức báo động đáng sợ”, mặc dù họ nhấn mạnh rằng sẽ cần nghiên cứu thêm để xác thực các con số mới.
Những kết quả chạy mô hình từ hơn 20 tổ chức nghiên cứu đang được chuyển về để biên soạn Bản đánh giá thứ 6 (the sixth assessment) của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu của Liên Hợp Quốc (IPCC), dự kiến sẽ được công bố vào năm tới.
So với bản đánh giá mới nhất vào năm 2014, 25% trong số dữ kiện mới này cho thấy một sự thay đổi mạnh mẽ từ 3°C sang 5°C về độ nhạy khí hậu – là lượng nhiệt nóng lên được dự báo xảy ra do mật độ khí carbon dioxide tăng gấp đôi trong bầu khí quyển, từ mức của thời kỳ tiền công nghiệp là 280 phần triệu.
Điều này đã gây sốc cho nhiều nhà quan sát/nghiên cứu kỳ cựu, bởi vì các giả định về độ nhạy của khí hậu (climate sensitivity) đã tương đối không thay đổi kể từ thập niên 1980.
Giáo sư Johan Rockström, Giám đốc của Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam, cho biết:
“Đây là một mối quan ngại rất sâu sắc.”
“Độ nhạy cảm của khí hậu là ‘chén thánh’ của ngành khoa học khí hậu. Đây là chỉ báo chính yếu của mức rủi ro khí hậu. Trong 40 năm, nó đã được dự báo ở khoảng 3°C. Bây giờ, chúng ta đột nhiên bắt đầu chứng kiến các mô hình khí hậu lớn trên các siêu máy tính tốt nhất đưa ra kết quả có thể tồi tệ hơn điều chúng ta từng nghĩ.”
Ông cho biết độ nhạy khí hậu trên 5°C sẽ thu hẹp phạm vi hành động và nỗ lực của con người nhằm làm giảm các tác động xấu nhất của hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Gs. Johan Rockström nói:
“Chúng ta sẽ không còn chỗ cho một giải pháp ‘hạ cánh mềm’ 1,5°C [so với mức CO2 của thời kỳ tiền công nghiệp] nữa. Điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là hướng đến mức tăng nhiệt 2°C.”
Các dự báo tồi tệ nhất về mức tăng nhiệt vượt quá 5°C đã được công bố bởi một số cơ quan nghiên cứu khí hậu hàng đầu thế giới, bao gồm Trung tâm Hadley của Cơ quan Khí tượng Anh Quốc (UK Met Office’s Hadley Centre) và Mô hình Hệ thống Trái đất của Cộng đồng Liên minh Châu Âu (EU’s Community Earth System Model).
Timothy Palmer, một giáo sư vật lý khí hậu tại Đại học Oxford (Anh Quốc) và là thành viên của ban cố vấn Cơ quan Khí tượng Anh Quốc (Met Office), cho biết con số cao ban đầu khiến cho giới khoa học lo sợ.
Ông nói:
“Mọi chuyện vượt ra ngoài những tính toán trước đây. Mọi người đã đặt vấn đề xem liệu có xảy ra một lỗi trong đoạn mã hay không. Nhưng rõ ràng là kết quả đã được rút ra từ những biến số tương đối nhỏ theo cách mà các đám mây được thể hiện ở trong những mô hình nghiên cứu.”
Vai trò của các đám mây là một trong những lĩnh vực không chắc chắn nhất của ngành khoa học khí hậu, bởi vì chúng khó đo lường, tùy thuộc vào độ cao, nhiệt độ kết tụ giọt và các yếu tố khác, có thể đóng vai trò làm ấm hoặc làm mát nền khí hậu. Trong nhiều thập kỷ, điều này đã nằm trong trọng tâm của các cuộc cãi vã học thuật khốc liệt.
Các báo cáo trước đây của IPCC (Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu của Liên Hợp Quốc) có xu hướng cho rằng các đám mây mang lại tác động trung tính, bởi vì những phản hồi tăng nhiệt và làm mát sẽ triệt tiêu lẫn nhau. Nhưng trong một năm rưỡi qua, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hiệu ứng cuối cùng của chúng sẽ là làm tăng nhiệt. Kết luận này dựa trên các mô hình điện toán có khả năng tính toán dựa trên độ phân giải tốt hơn và ngành vật lý vi mô nghiên cứu về các đám mây cũng đã phát triển hơn trước.
Gs. Palmer nói:
“Các đám mây sẽ quyết định số phận của loài người – liệu nền khí hậu sẽ là mối đe dọa có thật hay chỉ là một điều phiền phức mà chúng ta sẽ học cách sống cùng. Hầu hết những mô hình gần đây cho thấy các đám mây sẽ làm cho vấn đề này trở nên tồi tệ hơn.”
Trong một bài báo cáo khoa học gần đây trên Tập san Nature, Gs. Palmer giải thích cách mà mô hình nghiên cứu mới của Trung tâm Hadley đưa ra con số tăng nhiệt 5+°C về độ nhạy cảm của nền khí hậu, và điều đó đã được kiểm tra bằng cách đánh giá mức độ chính xác của mô hình trên trong việc dự báo thời tiết ngắn hạn.
Kỹ thuật kiểm tra này đã phơi bày những sai lầm trong các mô hình trước đó, nhưng trong trường hợp mới nhất, thì những kết quả nghiên cứu đã củng cố cho các ước tính này.
Ông viết:
“Các kết quả không phải đang tái khẳng định vấn đề – chúng ủng hộ cho các ước tính.”
Gs. Palmer đang kêu gọi các mô hình khác sẽ được thử nghiệm theo cách tương tự.
Ông khẳng định:
“Điều này rất quan trọng. Thông điệp gửi đến chính phủ và dân chúng chính là, chúng ta phải nghiêm túc xem xét độ nhạy cảm cao này của nền khí hậu. [Chúng ta] phải cắt giảm lượng phát thải xuống nhanh nhất có thể.”
IPCC dự kiến sẽ bao gồm con số độ nhạy khí hậu +5°C trong bản báo cáo kế tiếp về phạm vi của các hậu quả có thể xảy ra. Giới khoa học cảnh báo rằng đây là một công trình đang trong quá trình nghiên cứu, và vẫn đang có sự nghi ngờ về điều đó, bởi vì một con số cao như vậy không phù hợp với các ghi nhận trong lịch sử.
Theo một nghiên cứu của trường Đại học James Cook (Queensland, Australia), cho đến nay, một phần ba số san hô của the Great Barrier Reef đã bị giết chết do ảnh hưởng của đợt sóng...
Ghi nhận liên tục số liệu của 66 triệu năm vừa qua cho thấy những biến động khí hậu tự nhiên do sự thay đổi quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời nhỏ hơn nhiều so với mức tăng nhiệt...
Phần chia sẻ ý kiến