CÁI GIÁ CON NGƯỜI PHẢI TRẢ CHO NHIÊN LIỆU HÓA THẠCH
Tiến sĩ Ploy Achakulwisut (thuộc Đại học George Washington, Học viện Nghiên cứu Milken về Sức khỏe Cộng đồng) có bài viết khá chi tiết trên TheGuardian về các chi phí bệnh tật và...
Lọc theo mục lục
Tiến sĩ Ploy Achakulwisut (thuộc Đại học George Washington, Học viện Nghiên cứu Milken về Sức khỏe Cộng đồng) có bài viết khá chi tiết trên TheGuardian về các chi phí bệnh tật và...
“Giải pháp duy nhất cho vấn đề mực nước biển dâng chính là rút lui vào sâu hơn trong đất liền”. Đó là điều mà Tiến sĩ Orrin Pilkey – chuyên gia về mực nước biển...
Theo một nghiên cứu của trường Đại học James Cook (Queensland, Australia), cho đến nay, một phần ba số san hô của the Great Barrier Reef đã bị giết chết do ảnh hưởng của đợt sóng...
Giới khoa học đang cảnh cáo: BẰNG MỌI GIÁ, TRÁNH LÀM GIÁN ĐOẠN DÒNG HẢI LƯU GULF STREAM. Họ cho rằng việc thế giới đang ngày càng tiến gần đến thời điểm “tới hạn”...
Trong bài báo cũ của CBSNews nói về dự báo của một nghiên cứu khoa học được thực hiện từ năm 2006, các nhà khoa học (thuộc các nước Anh, Mỹ, Thụy Điển, Panama và Nova Scotia) đã...
NOAA (Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Hoa Kỳ) vừa công bố tháng 3/2018 là tháng 3 nóng nhất lần thứ năm trong lịch sử theo dõi và ghi nhận khí hậu toàn cầu của con người kể...
Sau gần 2 tháng ấm nóng do biến đổi khí hậu và Thái Bình Dương tiếp tục được đun sôi – với tháng 2/2018 được giới khoa học khí tượng toàn cầu xem là tháng Hai lần thứ 11...
Siêu bão Gita với sức mạnh Cat 4 vừa quét qua một loạt quần đảo ở Nam Thái Bình Dương (Samoa, Tonga), và đang nhắm đến mục tiêu lớn kế tiếp – đất nước New Zealand. Giới khoa...
Tổ chức các Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ (National Academies of Sciences – NAS) từng công bố nghiên cứu về mực nước biển dâng do băng tan: sẽ trên dưới 60cm (2 feet) vào...
Bão Sanba (tên quốc tế) đang dần trở thành cơn bão nhiệt đới số 2 chuẩn bị đi vào Biển Đông sau khi vượt qua Philippines ở vùng duyên hải Pagasa, Visayas và một phần Mindanao với...
Tiến sĩ Ploy Achakulwisut (thuộc Đại học George Washington, Học viện Nghiên cứu Milken về Sức khỏe Cộng đồng) có bài viết khá chi tiết trên TheGuardian về các chi phí bệnh tật và tử vong do ô nhiễm từ nhiên liệu hóa thạch gây ra. Bà đã từng bảo vệ đề tài tiến sĩ của mình về Khoa học Khí quyển tại trường Đại học Harvard. Bà nhận xét rằng các chính sách khí hậu trên toàn cầu hiện nay được soạn thảo bừa bãi với nhiều số liệu khoa học, và ba thông số đang được đề cập đến thường xuyên trong các bài diễn văn chính là: 2, 1000 và 66.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về Khí hậu của Liên Hiệp Quốc ở Paris (2015), lãnh đạo của các nước trên thế giới đã đồng thuận hạn chế hiện tượng nóng lên toàn cầu dưới 2°C để tránh những hậu quả thảm khốc do biến đổi khí hậu gây ra. Do đó, giới khoa học kêu gọi để có 50% cơ hội giữ mức nhiệt độ bình quân toàn cầu dưới 2°C, chúng ta chỉ có thể thải ra tiếp khoảng 1.000 tỷ tấn carbon dioxide (CO2) (hoặc 300 tỷ tấn carbon nguyên tố) từ bây giờ cho đến năm 2050, và sau đó thì chấm dứt hoàn toàn việc phát thải. Hiện chúng ta đang thải ra 36 tỷ tấn CO2 mỗi năm. Tuy nhiên, lượng khí thải tiềm tàng gây hiệu ứng nhà kính còn nằm trong các mỏ trữ lượng nhiên liệu hóa thạch (dầu mỏ và khí đốt) đã được xác định thì gấp khoảng 3 lần ngân sách giới hạn carbon này, nghĩa là 66% trữ lượng nhiên liệu hóa thạch phải được giữ lại trong lòng đất, không nên tiếp tục khai thác.
Do đó, cuộc tranh luận của mọi người hiện đang tập trung vào đâu là phương pháp tối ưu nhất để cắt giảm khí thải và vẫn giữ mức tăng nhiệt độ dưới 2°C. Theo tính toán của rất nhiều nhà hoạch định chính sách, kinh tế học, các tập đoàn khai thác nhiên liệu hóa thạch, và thực ra là những nhà khoa học, cách phù hợp nhất về mặt kinh tế để giữ cho nhiệt độ toàn cầu dưới 2°C chính là tạm hoãn việc cắt giảm phát thải trong những thập kỷ sắp tới, và sau đó chạy nước rút để bắt kịp hạn mức khí thải dựa trên phần lớn các công nghệ tiêu trừ khí thải (negative-emission), mà cho đến nay chưa được chứng thực về mặt kỹ thuật và kinh tế (ví dụ như chôn carbon vào lòng đất, trồng rừng để tiêu thụ CO2, hoặc phân hóa CO2 thành chất rắn). Tuy nhiên, có một con số rất quan trọng mà họ đã phớt lờ trong cách tính này: đó là 6,1 triệu.
Đó là vì mỗi năm có đến 6,1 triệu người bị tử vong sớm do ô nhiễm không khí. Mặc cho vấn đề thực tế và sâu sắc này đang ngăn trở việc xây dựng thêm các siêu đô thị ở những quốc gia đang phát triển, ô nhiễm không khí dần trở thành một tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng có ảnh hưởng đến hầu hết chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, dù chúng ta có hay không nhận thức được chuyện ấy. Học viện nghiên cứu của Hoa Kỳ về các Tác động lên Sức khỏe Cộng đồng (The Health Effects Institute) ước tính rằng chỉ có 5% dân số toàn cầu là may mắn khi sống ở các vùng có mức độ ô nhiễm không khí trong ngưỡng an toàn. Dù vậy, các nghiên cứu mới đây còn khẳng định rằng thực ra, không có mức ô nhiễm không khí nào là an toàn cả.
Tại sao con số này có liên quan đến chính sách khí hậu đến thế? Đó là vì một vấn đề duy nhất là nguyên nhân chính gây ra cả hiện tượng biến đổi khí hậu lẫn ô nhiễm không khí: tiến trình đốt cháy nhiên liệu. Việc đốt than đá, dầu mỏ, khí tự nhiên, và các sinh khối khác – cho nhiều ứng dụng sinh hoạt hàng ngày, từ điện năng, sưởi ấm, nấu ăn, cho đến vận tải – đã thải ra hàng trăm loại khí và hạt nhỏ, mà trong số đó làm xáo trộn hệ thống khí hậu hoặc gây hại cho sức khỏe con người, hoặc ảnh hưởng cả hai. Trong tương lai, hiện tượng biến đổi khí hậu cũng sẽ làm cho chất lượng không khí tệ đi hơn nữa.
Các nghiên cứu khoa học được tiến hành hàng thập kỷ nay cho thấy không khí ô nhiễm có liên quan đến một loạt bệnh tật và rối loạn chức năng sống, như hen suyễn, ung thư, bệnh tim, đột quỵ, và chứng sinh non. Ngoài ra, càng có nhiều bằng chứng cho thấy ô nhiễm từ việc đốt than đá và khí thải từ các phương tiện di chuyển có thể làm đình trệ khả năng phát triển của con người, hạn chế chỉ số thông minh (IQ), và gây bệnh tự kỷ ở trẻ em. Cái giá phải trả về mặt kinh tế và xã hội của ô nhiễm không khí xuất hiện ở khắp mọi nơi và gia tăng gấp nhiều lần. Đây là những sự hao phí ảnh hưởng đến mỗi cá nhân, gia đình và xã hội dưới hình thức chi phí y tế, chi phí cho hệ thống bảo vệ sức khỏe cộng đồng, năng suất lao động thấp, và tăng trưởng kinh tế thấp (đó là chưa đề cập đến các chi phí cho việc gây tổn hại hệ sinh thái).
Vậy mà không một chi phí nào được đề cập ở trên bắt nguồn từ việc phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch của loài người chúng ta được tính đến trong hầu hết những phân tích cân đối giữa lợi ích và cái giá phải trả của các sách lược làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Một nghiên cứu gần đây ước tính rằng các lợi ích về mặt sức khỏe từ việc tránh gây ô nhiễm không khí sẽ mang lại nhiều giá trị hơn từ 140 – 250% trên bình diện toàn cầu so với các chi phí tiêu trừ CO2 để giữ nhiệt độ Trái Đất dưới 2°C. Nhiều chứng cứ trong lịch sử cũng cho thấy điều tương tự. Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Hoa Kỳ (EPA) lượng định rằng Đạo luật Điều chỉnh Không khí Sạch của Mỹ sẽ tốn 65 tỷ USD để thực thi, nhưng nó sẽ mang lại một lợi ích hơn 2 tỷ USD vào năm 2020 khi tránh được các chi phí phải trả cho sức khỏe cộng đồng.
Rất nhiều nhóm chuyên gia về sức khỏe cộng đồng đánh giá thấp cơ hội lớn lao để các lãnh đạo quốc gia trên toàn cầu thiết lập những chính sách và sáng kiến để cùng lúc giải quyết hai vấn đề của biến đổi khí hậu và ô nhiễm không khí. Một số ví dụ về hành động cụ thể nên là thay thế các nguồn gây ô nhiễm và thải carbon nhiều (như việc đốt than đá và dùng động cơ diesel siêu công suất) bằng chuyển đổi công nghệ dùng năng lượng tái tạo hoặc với phát thải ít, chấm dứt việc phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, tái thiết kế khoảng trống đô thị để cư dân dễ dàng di chuyển bằng đi bộ, đạp xe đạp, hoặc phương tiện giao thông công cộng, và chuyển đổi sang một nền kinh tế tự cung tự cấp bền vững hơn. Trong khi hiệu quả ước tính của các phương pháp giảm nhẹ (tiêu trừ) khí thải cần nhiều thời gian để thực hiện và phụ thuộc vào những khoảng không gian rộng lớn phân tán trên toàn cầu, thì các lợi ích về mặt sức khỏe khi sớm cắt giảm khí thải sẽ có hiệu quả ngay lập tức trong phạm vi địa phương.
Đã từ lâu, thiệt hại khủng khiếp của bệnh tật và tử vong vì ô nhiễm do nhiên liệu hóa thạch gây ra bị phớt lờ trong những chính sách về biến đổi khí hậu và bị công chúng xem thường. Nhưng các thông số về sức khỏe cộng đồng cho thấy một sự thật rõ ràng rằng, không phải tất cả mọi kịch bản cho một nền nhiệt bình quân toàn cầu tăng 2°C đều mang tính bình đẳng và dân chủ. Sự sống và sức khỏe của hàng trăm triệu người – đặc biệt là của con cháu chúng ta – có thể bị đe dọa. Và chúng ta sẽ rất tắc trách nếu phớt lờ điều đó.
—–Bình luận về tình hình Việt Nam:
Chính phủ Việt Nam không những không có các biện pháp và chính sách để tiêu trừ carbon dioxide (negative-emission), mà còn quyết tâm xây thêm những nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá và sử dụng công nghệ bẩn lỗi thời bị thải bỏ từ Trung Quốc và các nước phát triển khác.
Chính sách sức khỏe cộng đồng và các dịch vụ bảo hiểm y tế công ở Việt Nam còn rất yếu kém và chưa bao giờ được thực thi hoàn chỉnh để bảo vệ quyền lợi của người dân.
Người ta đã cho phép phá rừng để làm resort, chặt cây đô thị để xây lên các tòa nhà cao tầng. Phần lớn các nhà máy ở khu công nghiệp có thể vượt qua những luật lệ ràng buộc về mức khí thải chỉ bằng cách hối lộ và đút lót.
Nhà nước Việt Nam không có cơ quan nghiên cứu đặc thù nào cho vấn đề biến đổi khí hậu hay ô nhiễm môi trường. Trong đầu những nhà lãnh đạo Việt Nam chỉ cần biết đến một thứ duy nhất: TIỀN.
Vậy thì các bạn đủ sức để hiểu rằng số phận của mình trong tương lai sẽ như thế nào.
Và Việt Nam sẽ có một định mệnh khốn khổ vì lòng tham và sự ngu dốt của những nhà lãnh đạo cộng sản, cộng với thứ chủ nghĩa mackeno của phần lớn người dân không quan tâm đến chính trị.
Phần chia sẻ ý kiến