“CHÚNG TA SẮP HẾT LƯƠNG THỰC” – 7 LÝ DO GIẢI THÍCH VÌ SAO SẮP XẢY RA NẠN ĐÓI TOÀN CẦU


hanhtinhtitanic
“CHÚNG TA SẮP HẾT LƯƠNG THỰC”...

Giờ đây, chúng ta có thể chắc chắn rằng nạn đói toàn cầu sẽ xảy ra trong tương lai gần. Dưới đây là những lý do chính xác và mang tính khoa học để phân tích và giải thích cho điều phải đến.

Nguồn của bài viết: “We Are Going To Run Out Of Food” – 7 Reasons There’s Going To Be A Global Famine. Bài được đăng trên một blog website mang tựa đề Collapse Musings (tạm dịch “Suy tưởng về Sụp đổ”), với các tác giả không tên gọi và cũng không biết họ đang ở đâu trên hành tinh này. Nhưng một điều chắc chắn rằng những người góp phần vào nội dung của blog đều am hiểu rất sâu sắc cuộc khủng hoảng khí hậu và sụp đổ hệ sinh thái toàn hành tinh này. Họ có khả năng trích dẫn chính xác các dữ kiện và thông tin toàn cầu trên mọi khía cạnh (khí tượng, kinh tế, chính trị, xã hội). Họ đang tập hợp dưới một website nhỏ để đưa ra những chia sẻ cuối cùng trước khi nền văn minh loài người tiến đến điểm cuối cùng của nó.

Lương thực là nền tảng của một xã hội văn minh. Chừng nào còn có đủ thức ăn để cung cấp, chừng đó mọi người đều rất hợp tác và thường làm việc cùng nhau để giúp đỡ những người kém may mắn. Nhưng khi hết lương thực, tất cả mọi cuộc chơi đều sẽ tiêu tùng.

Khi xem xét tầm quan trọng của lương thực, bạn sẽ nghĩ ngay đến việc giới truyền thông chính thống đề cập đến sự nguy hiểm của tình trạng khan hiếm thực phẩm. Chắc chắn, họ sẽ đề cập ngắn gọn đến những thảm họa khí hậu sắp xảy ra hoặc vấn đề tài nguyên cạn kiệt, nhưng lại hiếm khi đề cập đến kết quả cuối cùng của những khủng hoảng này: đó là tình trạng thiếu lương thực.

Ngay cả một số nhà khoa học thẳng thắn nhất về khí hậu vẫn ưa nói những điều mơ hồ, họ nói những câu kiểu như “cách sống của chúng ta đang gặp rủi ro” hoặc “tương lai có vẻ ảm đạm”. Chuyện đó giống như họ sợ nói ra điều họ thực sự muốn nói: Mọi người sắp chết đói.

Và không chỉ có những người ở nửa bên kia của thế giới. Những người trong thành phố của bạn. Những người ở ngay trong khu phố của bạn. Có lẽ ngay cả những người trong nhà của bạn nữa.

Bằng việc tỏ ra mơ hồ và né tránh bất kỳ câu chuyện nào về tình trạng thiếu lương thực, các phương tiện truyền thông khiến mọi người dễ dàng bỏ qua những mối đe dọa hiện hữu như biến đổi khí hậu và thời điểm sản lượng khai thác dầu mỏ đạt đỉnh (peak oil). Thay vì lo lắng, mọi người tự trấn an rằng nó sẽ không tệ đến thế, nó chỉ chủ yếu ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo thôi, rằng họ không cần phải hy sinh bất kỳ điều gì cả.

Và đó chính xác là những gì mà giới truyền thông muốn. Họ không muốn bạn cắt giảm chi tiêu hoặc yêu cầu chấm dứt sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Điều đó không tốt cho việc kinh doanh. Họ muốn bạn tiếp tục tiêu thụ bất kể thứ gì. Nếu không, làm thế nào các tỷ phú có thể mua thêm siêu du thuyền và biệt thự lớn?

Giới truyền thông chính thống nói suông về ý tưởng chuyển đổi khỏi nhiên liệu hóa thạch, nhưng họ từ chối đi xa đến mức khiến người xem sợ hãi. Họ cho rằng đó là vì những người sợ hãi sẽ trở nên hờ hững, nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì điều ngược lại mới đúng.

Khi mọi người cho rằng hậu quả của biến đổi khí hậu sẽ chỉ được cảm nhận thấy trong tương lai xa xôi, họ sẽ không có được động lực để hành động. Đó là do bản chất con người. Khi một mối đe dọa xem ra còn xa vời và chỉ mang tính giả thuyết, mọi người hiếm khi làm bất cứ điều gì để đối phó với nó. Nhưng khi mối đe dọa gần xảy ra và chắc chắn đến, họ sẽ hành động. Hãy nhìn cách Hoa Kỳ phản ứng với cuộc tấn công Trân Châu Cảng [trong quá khứ].

Trừ khi mọi người đủ sợ hãi trước biến đổi khí hậu và tài nguyên cạn kiệt, họ vẫn sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh như bình thường. Đã đến lúc bắt đầu nói cho mọi người biết sự thật về những điều tồi tệ sẽ là như thế nào. Chỉ khi đó họ mới cảm thấy có động lực để bắt đầu chuẩn bị cho một tương lai đen tối và giảm thiểu thiệt hại.

Đó là lý do tại sao tôi tìm thấy dòng tweet này của Roger Hallam mang ý nghĩa thật mới mẻ. Hallam là nhà hoạt động môi trường lâu năm và là người đồng sáng lập của Tổ chức Extinction Rebellion. Dưới đây là những gì ông ấy viết [trên Twitter]:

“Chúng ta sắp sửa hết thức ăn. Hãy viết điều này lên cánh cửa tủ lạnh nhà bạn. Hãy đọc điều đó vào mỗi sáng.”

Trong bài viết này, tôi sẽ giải thích tại sao ông ấy đúng. Dưới đây là 7 lý do khiến nạn đói toàn cầu sắp xảy ra:

1. Lũ lụt kỷ lục

Lũ lụt là thảm họa thiên nhiên phổ biến nhất trên thế giới và chúng đang ngày càng xảy ra thường xuyên hơn, gây chết nhiều người hơn mỗi năm. Đây là kết quả trực tiếp của biến đổi khí hậu. Khi không khí ấm hơn, khí quyển có khả năng giữ được nhiều độ ẩm hơn.

Trên thực tế, cứ mỗi độ C tăng lên, bầu khí quyển có thể chứa thêm 7% nước. Đây là một trong những lý do khiến lũ lụt ngày càng trở nên phổ biến hơn khi hành tinh ngày càng ấm hơn.

Hồi tháng 8 năm 2017, Bão Harvey tấn công Texas và đây là trận mưa lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, mang theo một lượng mưa lên tới hơn 1.500mm ở một số nơi. Theo các nhà khoa học về khí hậu, Harvey nhấn chìm nhiều gấp đôi số ngôi nhà so với khi không có biến đổi khí hậu.

Vài năm sau, vào tháng 7 năm 2021, giới khoa học đã bị sốc trước quy mô của trận lũ lụt ở Đức. Trên khắp đất nước này, kỷ lục về lượng mưa đã bị phá vỡ, cao hơn kỷ lục lượng mưa hàng ngày trước đó tới 50%.

Các nhà khoa học về khí hậu đã dự báo rằng lũ lụt sẽ nghiêm trọng hơn khi hành tinh ấm lên, nhưng họ không ngờ sẽ sớm xảy ra lũ lụt nghiêm trọng như vậy. Đó là dấu hiệu cho thấy họ đã đánh giá thấp tác động của biến đổi khí hậu đối với thời tiết.

Nhưng lũ lụt có liên quan gì tới lương thực? Vâng, lũ lụt thường xảy ra trên đất nông nghiệp. Và khi đó, mùa màng bị phá hủy.

Ví dụ như: vào tháng 6 năm 2022, Trung Quốc đã trải qua trận mưa lớn nhất trong vòng 60 năm. Kết quả là hàng trăm nghìn hecta đất nông nghiệp của quốc gia này đã bị phá hủy, đặc biệt là những vùng trồng lúa. Kết quả là chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng thiếu gạo lớn nhất trong vòng 20 năm qua.

Cùng tháng đó, Bangladesh hứng chịu trận lũ lụt tồi tệ nhất trong một thế kỷ, khiến gần 4 triệu người phải di tản. Hàng nghìn hecta cây trồng trị giá hàng tỷ USD bị phá hủy và khoảng 24.000 nông dân bị ảnh hưởng.

Cùng lúc đó, Pakistan hứng chịu trận lũ lụt tồi tệ nhất trong nhiều thế hệ. Có thời điểm, 1/3 diện tích của đất nước này chìm trong nướcgần 8 triệu người phải sơ tán.

Hậu quả của trận lụt này là 1/2 vựa lúa mì của Pakistan đã bị xóa sổ và 4 triệu mẫu cây trồng—chủ yếu là lúa mì và lúa gạo—bị phá hủy. Sau đó, nền đất quá ẩm ướt để trồng cây mới, và vô số nông dân đã bị phá sản.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là, đây mới chỉ là sự khởi đầu.

Con người đã mất hơn 50 năm để nâng nền nhiệt độ trung bình toàn cầu lên thêm 1 độ C, nhưng nhiều nhà khoa học tin rằng tốc độ nóng lên này sẽ tăng gấp đôi trong 25 năm tới, đưa chúng ta tiến đến mức tăng nhiệt 2 độ C trong vòng 20 năm tới. Lúc đó, khí quyển sẽ giữ được 14% nhiều độ ẩm hơn so với trước khi biến đổi khí hậu.

Nếu lũ lụt là mối đe dọa duy nhất đối với nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta, chúng ta có thể tìm cách thích nghi. Nhưng thật không may, có những hiện tượng thời tiết cực đoan khác cũng gây thiệt hại không kém. Ví dụ như dưới đây…

2. Sóng nhiệt cực đoan

Vào tháng 6 năm 2021, khu vực Tây Bắc lục địa Bắc Mỹ đã trải qua đợt sóng nhiệt gay gắt nhất kể từ khi bắt đầu ghi nhận các thông số khí tượng. Thậm chí không có đợt nắng nóng nào trước đó gay gắt đến như vậy.

Trước đợt sóng nhiệt này, nhiệt độ cao nhất mọi thời đại của Canada là 113°F (khoảng 45°C). Bây giờ mốc nhiệt cao nhất mọi thời đại đo được là 121°F (khoảng 49,5°C). Chưa bao giờ kỷ lục nhiệt độ cao ở Canada lại bị phá vỡ nhiều đến vậy. Và các kỷ lục trước đó không chỉ bị phá trong một ngày mà là ba ngày liên tiếp.

Giới khoa học khí hậu đã bị sốc trước mức độ nghiêm trọng của đợt sóng nhiệt này, và nó khiến nhiều người trong số họ phải xem xét lại dự báo của mình về tình trạng nóng lên trong tương lai. Nền nhiệt độ vượt quá phạm vi bình thường đến nỗi hơn một tỷ sinh vật biển sống dọc bờ biển bị luộc chín đến chết.

Khoảng một năm sau, vào năm 2022, Trung Quốc đã trải qua đợt sóng nhiệt dài nhất và nóng nhất từng được ghi nhận. Theo các nhà khoa học khí hậu, không có đợt sóng nhiệt nào có thể so sánh được với đợt này, khi mà nó này kéo dài đến nhiều tuần lễ. (Đợt nắng nóng ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương chỉ kéo dài vài ngày mà thôi.)

Tình trạng tồi tệ đến mức đã xảy ra mất điện luân phiên trên khắp quốc gia này do việc sử dụng máy điều hòa ngày càng tăng đã gây quá tải lưới điện quốc gia. Những người không có điện phải tìm đến chỗ có máy điều hòa trong các cửa hàng và ga tàu điện ngầm.

Cùng thời điểm đó, Châu Âu cũng trải qua mùa hè nóng kỷ lục. Vương quốc Anh chạm mốc nhiệt cao nhất từng được ghi nhận, 104°F (khoảng 40°C), là nhiệt độ mà giới khoa học không nghĩ sẽ xảy ra trong nhiều năm nữa.

Thật buồn cười khi một số người cáo buộc giới khoa học khí hậu là bên hay đưa ra cảnh báo. Nếu đúng như vậy thì chúng ta sẽ chứng kiến mẫu thời tiết không quá khắc nghiệt như họ dự đoán. Thay vào đó, giới khoa học khí hậu liên tục mất cảnh giác trước những đợt nắng nóng gay gắt. Họ nói rằng nhiều nơi trên thế giới đang đứng trước nguy cơ nắng nóng kéo dài vượt quá khả năng chịu đựng của con người và điều này đang xảy ra sớm hơn nhiều thập kỷ so với dự kiến.

Đây là một vấn đề lớn cho nguồn cung cấp lương thực của chúng ta. Có một giới hạn về mức độ nhiệt mà cây trồng và vật nuôi của chúng ta có thể chịu được và chúng ta đang bắt đầu phá vỡ những giới hạn đó.

Năm ngoái tại Vương quốc Anh, hàng triệu con gà ở trang trại đã chết trong ngày có nền nhiệt độ cao kỷ lục. Trang trại gà thường được lắp đặt hệ thống thông gió, nhưng ngay cả điều đó cũng không đủ để ngăn gà chết vì kiệt sức do quá nóng.

Tại Hoa Kỳ, hàng nghìn gia súc đã chết trong đợt nắng nóng xảy ra ở Kansas. Thông thường, bò chết vì sốc nhiệt sẽ được chế biến thành thức ăn chăn nuôi và phân bón, nhưng số lượng bò chết nhiều đến mức các cơ sở chế biến quá tải, và xác của chúng bị vứt ra bãi rác.

Ấn Độ và Pakistan cũng đã trải qua nền nhiệt độ cao kỷ lục vào năm 2022. Mốc nhiệt đo được dọc theo biên giới giữa hai quốc gia lên tới 120°F (khoảng 48,9°C).

Đây là tin xấu đối với khu vực trồng lúa mì của Ấn Độ, nơi thường có nền nhiệt độ trên 100°F (khoảng 38°C) vào tháng 4 hàng năm. Theo giới nông dân, nắng nóng khiến cây lúa mì trưởng thành nhanh hơn, khiến kích thước hạt bị teo lại và suy giảm tổng sản lượng.

Tình trạng nắng nóng cực độ này là lý do tại sao chính phủ Ấn Độ quyết định cấm xuất khẩu lúa mì, bất chấp lời hứa của họ sẽ bù đắp cho việc thiếu hụt xuất khẩu ngũ cốc từ Ukraine. Nhưng họ cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác vì một số khu vực đã chứng kiến sản lượng lúa mì của họ giảm tới 20%.

Trong hiện tại, thế giới có thể tạm giải quyết một số đợt nắng nóng và năng suất mùa vụ thấp hơn một chút. Nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang chứng kiến những đợt nắng nóng kỷ lục hàng năm. Điều gì sẽ xảy ra trong 10-20 năm nữa khi có thêm một tỷ người phải được nuôi sống và những vòm nhiệt (heat domes) hình thành úp lên nhiều vựa lương thực trên khắp thế giới?

Chúng ta biết câu trả lời rõ ràng mà: Giá lương thực sẽ cao hơn, cũng như xảy ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói.

3. Hạn hán dai dẳng

Không chỉ nền nhiệt độ cao mới tàn phá mùa màng. Nạn hạn hán thậm chí còn là một vấn đề tồi tệ hơn và xảy ra trên khắp thế giới. Chúng ta đang chứng kiến một số đợt hạn hán tồi tệ nhất trong nhiều thế kỷ.

Giới khoa học khí hậu đã dự đoán điều này từ nhiều thập kỷ trước. Khi biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, các khu vực ẩm ướt sẽ trở nên ẩm ướt hơn và các khu vực khô hạn sẽ trở nên khô nóng hơn. Vì vậy, những nơi không có nhiều mưa đang bị khô hạn, còn những nơi thường mưa nhiều sẽ bị ngập lụt. Thế giới vẫn nhận được lượng nước như nhau; chỉ có điều chúng chỉ rơi sai chỗ mà thôi.

Ví dụ như: theo Cơ quan Quan sát Hạn hán Toàn cầu (Global Drought Observatory) của Ủy ban Châu Âu (European Commission), Châu Âu đang trải qua đợt hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 500 năm qua. Mực nước của các con sông đã xuống thấp đến mức những con tàu, sà lan và thậm chí cả những ngôi làng cổ xưa đã nổi lên khỏi mặt nước.

Trong số tất cả các hiện vật xuất hiện [sau khi mực nước hạ thấp], cảnh tượng đáng kinh ngạc nhất là “những viên đá đói” (hunger stone). Nhiều thế kỷ trước, trong những đợt hạn hán đặc biệt nghiêm trọng, người ta đã khắc những thông điệp vào đá ở hai bên sông, ngay trên mực nước. Sau đó, mực nước dâng cao và che phủ chúng, nhưng bây giờ hầu hết chúng đều có thể được nhìn thấy trở lại.

Một viên đá đói có thể được nhìn thấy tại sông Elbe ở Tiệp Khắc. Dòng chữ trên mình nó có mang nội dung sau đây:

“Wenn du mich siehst, dann weine”, nghĩa là “Nếu bạn nhìn thấy tôi thì hãy than khóc đi”.

Bất cứ ai viết điều đó đều hiểu rằng khi mực nước xuống thấp như vậy có nghĩa là sẽ không có đủ mưa để trồng lương thực cho tất cả mọi người. Và đó không phải là viên đá đói duy nhất. Chúng đang tái xuất hiện trên khắp Châu Âu.

Nạn hạn hán ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thậm chí còn tồi tệ hơn phần còn lại của Châu Âu. Nghiên cứu cho thấy họ đang phải trải qua đợt hạn hán tồi tệ nhất trong 1200 năm qua. Điều tồi tệ nhất là dòng sông Tagus chảy qua hai quốc gia này có nguy cơ cạn kiệt hoàn toàn.

Ở Pháp, thời tiết cực kỳ khô hạn đã gây thiệt hại cho các vụ mùa ngũ cốc. Pháp là nước sản xuất ngũ cốc lớn nhất của Liên minh Châu Âu (European Union), nhưng nạn hạn hán đã làm suy giảm đáng kể sản lượng ngũ cốc, đẩy giá lúa mì lên cao hơn bao giờ hết.

Hoa Kỳ cũng đang trải qua đợt hạn hán tồi tệ nhất trong 1200 năm qua. Hồ Mead và Hồ Powell, hai hồ chứa nước lớn nhất nước Mỹ, chỉ còn 1/3 sức chứa, và mực nước tiếp tục hạ giảm.

Tình trạng hạn hán tồi tệ đến mức vào năm 2022, các nhà quản lý liên bang đã tuyên bố tình trạng thiếu nước lần đầu tiên dọc theo sông Colorado. Con sông đó là nguồn cung cấp nước cho 40 triệu người cùng với hàng tỷ đô la cho nền sản xuất nông nghiệp. Dự kiến mực nước của nó sẽ ngày càng thấp đi.

Vùng Đại Bình Nguyên (the Great Plains) thậm chí còn quan trọng hơn đối với việc sản xuất lương thực vì chúng cung cấp khoảng một nửa lượng lúa mì của Hoa Kỳ. Thật không may, nơi này đang bị tàn phá bởi hạn hán và cháy rừng. Theo Trung tâm Giảm thiểu Hạn hán Quốc gia Hoa Kỳ (National Drought Mitigation Center), hơn 80% diện tích khu vực từ Nebraska đến Oklahoma đang trở nên khô hạn bất thường.

Miền Tây Oklahoma xảy ra một vụ mùa lúa mì đặc biệt tàn khốc vào năm 2022. Tình trạng hạn hán tồi tệ đến mức khoảng một nửa số cánh đồng lúa mì đã bị các nhà sản xuất bỏ hoang.

Ở Australia, đợt siêu hạn hán nghiêm trọng đến mức đất nước này có thể phải bỏ hoang phần lớn đất nông nghiệp. Trong vòng 20 năm qua, lợi nhuận nông nghiệp ở Australia đã suy giảm 23% và dự kiến còn tệ hơn nữa.

Tình trạng hạn hán nghiêm trọng đang xảy ra trên khắp thế giới ở các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều đất nước khác. Trên thực tế, đến năm 2025, 2/3 dân số thế giới sẽ phải sống ở các quốc gia có tình trạng căng thẳng về nước.

Một lần nữa, giới khoa học khí hậu đã dự báo tất cả những điều này từ lâu. Điều họ không dự đoán được là nó sẽ diễn ra nhanh đến mức nào.

Với tất cả những đợt siêu hạn hán này, bạn sẽ cho rằng giá thực phẩm thậm chí sẽ còn tăng cao hơn hiện tại, nhưng giới nông dân đã bù đắp lượng mưa thiếu hụt bằng cách bơm nước ngầm ra khỏi tầng ngậm nước. Thật không may, đây chỉ là giải pháp tạm thời vì tầng nước ngầm cũng đang cạn kiệt nhanh chóng.

4. Nước ngầm cạn kiệt

Tầng đất chứa nước ngầm có thể được tìm thấy trên khắp hành tinh này, từ vài trăm đến vài nghìn mét bên dưới bề mặt. Mặc dù nhiều người nghĩ chúng là hồ hoặc sông ngầm, nhưng thực ra chúng là những khối đá xốp và trầm tích đã bão hòa nước.

Nếu không có tầng nước ngầm, chúng ta đã rơi vào nạn đói toàn cầu rồi. Tại sao vậy? Bởi vì khi không có đủ mưa để trồng lương thực, người nông dân chỉ cần bơm nước ngầm ra khỏi tầng ngậm nước và sử dụng nó để tưới tiêu cây trồng của họ. Hiện nay, khi nạn hạn hán ngày càng kéo dài và xảy ra thường xuyên hơn, nhiều nông dân phụ thuộc rất nhiều vào tầng nước ngầm.

Thật không may, các tầng ngậm nước trên thế giới đang dần cạn kiệt nhanh hơn tốc độ lượng mưa có thể nạp lại cho chúng, và đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh điều này. Ví dụ, vào năm 2002, NASA và Trung tâm Hàng không Vũ trụ Đức (German Aerospace Center) đã thực hiện một sứ mệnh chung với hai vệ tinh nhằm đo lường sự thay đổi trong trường hấp dẫn của Trái Đất. Nhiệm vụ nghiên cứu này được gọi là GRACE (Gravity Recovery and Climate Experiment – Thực nghiệm Phục hồi Trọng lực và Khí hậu).

Nhiệm vụ này đã diễn ra trong 15 năm và bằng cách sử dụng dữ liệu do vệ tinh thu thập, các nhà thủy văn học có thể đo được lượng nước trong hồ, sông, sông băng và tầng nước ngầm (theo nguyên tắc khối thể tích nước càng lớn thì lực hấp dẫn càng mạnh).

Họ phát hiện ra rằng tầng ngậm nước đang bị thu hẹp ở mức đáng báo động. Ví dụ như: các tầng đất chứa nước ngầm ở Châu Âu đã mất đi khoảng 84 tỷ tấn nước mỗi năm (tương đương với toàn bộ lượng nước ở Hồ Ontario).

Trong một nghiên cứu khác, giới khoa học đã tổng hợp một danh sách 11,8 triệu vị trí giếng nước ngầm trên khắp thế giới và xem xét độ sâu cũng như mục đích sử dụng của chúng. Họ phát hiện ra rằng phần lớn các giếng mới đang được đào thêm ngày càng sâu hơn, điều này có nghĩa là mực nước ngầm ngày càng hạ thấp hơn.

Một nghiên cứu thậm chí còn tham vọng hơn, được công bố trên Tập san Science, đã kiểm tra hồ sơ xây dựng của 39 triệu giếng ở 40 quốc gia. Họ so sánh độ sâu của giếng với mực nước ngầm và phát hiện hàng triệu giếng trên khắp thế giới cách mực nước ngầm hiện tại đến vài mét, khiến chúng có nguy cơ cạn kiệt trong thời gian tới.

Trên thực tế, các nhà nghiên cứu kết luận rằng có tới 20% giếng nước ngầm trên thế giới sắp bị cạn kiệt, và điều này sẽ làm mất đi nguồn nước ngọt của hàng trăm triệu người.

Như họ đã cho biết,

“hậu quả của việc hàng triệu giếng cạn, và có lẽ hàng triệu giếng khác trong những thập kỷ tới, sẽ rất nghiêm trọng và chưa từng có ở quy mô như vậy trong lịch sử loài người”.

Bạn có thể nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề đối với các quốc gia thuộc thế giới thứ ba đang gặp hạn hán nghiêm trọng, nhưng bạn đã nhầm. Một tầng chứa nước ngầm có nguy cơ cạn kiệt chính là tầng nước ngầm Ogallala, bao phủ khoảng 175.000 dặm vuông (khoảng 453.000 km vuông) trên khắp vùng Đại Bình Nguyên. Kể từ năm 1940, tầng nước ngầm Ogallala đã suy giảm ít nhất 30%, và mực nước ngầm tại đây hạ giảm khoảng 2 feet (0,6m) mỗi năm.

Đây là một vấn đề lớn vì khu vực Trung Tây của nước Mỹ là một trong những nơi cung cấp lương thực chính cho toàn cầu, sản xuất hơn 25% sản lượng ngô và đậu nành của thế giới. Các chuyên gia tại Cơ quan Quản lý Nước Kansas (Kansas Water Authority) đã cảnh báo rằng nếu nông dân và chủ trang trại không ngừng bơm nước ra khỏi tầng ngậm nước Ogallala, thì cuối cùng nguồn nước tại đây sẽ cạn kiệt và toàn bộ khu vực sẽ đối mặt với sự sụp đổ kinh tế.

Tệ hơn nữa, còn có một mối đe dọa khác đối với nguồn cung ứng lương thực của chúng ta, thậm chí còn nguy hiểm hơn và sắp xảy ra.

5. Thiếu hụt phân bón

Hầu hết mọi người không biết nền văn minh của chúng ta phụ thuộc vào phân bón nhiều đến mức nào để tồn tại. Nếu không nhờ nông dân sử dụng một lượng lớn phân bón cho cây trồng của họ, dân số toàn cầu sẽ không tăng từ 4 tỷ lên 8 tỷ trong 50 năm qua.

Trên thực tế, nếu không có phân bón tổng hợp, một nửa thế giới sẽ chết đói, và đó là lý do tại sao thật đáng sợ khi chúng ta đang cạn kiệt nguyên liệu cần thiết để sản xuất phân bón.

Phân bón tổng hợp đôi khi còn được gọi là phân NPK. NPK là viết tắt của nguyên tố nitơ (Nitrogen – Đạm), phốt pho (Phosphorous – Lân) và kali (Potassium, K là ký hiệu hóa học của nó). Hãy bắt đầu với nitơ.

Nitrogen

Nitơ là thành phần quan trọng của DNA và do đó cần thiết cho sự phát triển của thực vật. Nếu đất ở trang trại không có đủ nitơ, cây trồng sẽ phát triển chậm và cho năng suất thấp.

Cho đến khoảng một thế kỷ trước, nông dân đã bổ sung nitơ vào đất bằng cách rải phân chuồng và phân hữu cơ hoặc trồng các loại cây có khả năng cố định đạm như đậu. Việc này hiệu quả nhưng có giới hạn của nó.

Sau đó vào năm 1913, một nhà hóa học tên là Fritz Haber đã phát hiện ra cách chuyển đổi khí nitơ trong khí quyển thành amoniac (ammonia), có thể sử dụng làm phân bón. Ngay sau đó, một kỹ sư tên là Carl Bosch đã phát minh ra một chiếc máy thực hiện được chính xác chuyện đó.

Quá trình sản xuất này sau đó được gọi là quy trình Haber-Bosch và là một trong những thành tựu khoa học quan trọng nhất của thế kỷ 20. Các quốc gia bắt đầu sử dụng quy trình này để sản xuất một số lượng lớn phân bón chứa nitơ, cho phép nông dân trồng được nhiều lương thực hơn trên cùng một diện tích.

Một trong những thành phần quan trọng nhất trong quá trình này là khí tự nhiên. Để sản xuất amoniac, nitơ trong không khí được kết hợp với hydro từ khí tự nhiên. Vì vậy, giá khí đốt tự nhiên càng cao thì phân bón càng đắt.

Và theo IEA, chúng ta đang tiến gần đến giai đoạn đỉnh sản lượng khai thác khí đốt tự nhiên. Các khám phá mỏ khí đốt tự nhiên đã đạt đỉnh vào năm 1970 và kể từ đó, việc tìm kiếm các nguồn khí mới ngày càng khó khăn hơn.

Điều này có nghĩa là giá khí đốt tự nhiên không còn cách nào khác ngoài việc sẽ tăng lên, đồng nghĩa với giá phân bón cũng sẽ tăng, cuối cùng đồng nghĩa với giá lương thực sẽ tăng. Toàn bộ hệ thống sản xuất lương thực của chúng ta phụ thuộc vào một nguồn tài nguyên hữu hạn có thể cạn kiệt trong vài thập kỷ.

Phosphorous

Phốt pho (lân) cũng là một thành phần thiết yếu trong phân bón hiện đại. Nó chủ yếu đến từ lượng lớn phân chim và dơi cổ đại, và nó có thể được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới.

Thực vật cần phốt pho để chuyển hóa năng lượng mặt trời thành các phân tử sinh học cần thiết cho quá trình quang hợp. Nếu không có đủ phốt pho, thực vật sẽ khó phát triển và tạo ra rất ít bộ phận có thể ăn được.

Vì lý do này, đá khoáng có chứa gốc photphorit rất có giá trị và các công ty đã khai thác nó ở bất cứ nơi nào họ có thể tìm thấy, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc phá hủy hệ sinh thái địa phương. Ví dụ như, quốc đảo nhỏ Nauru đã bị tàn phá do hoạt động khai thác phốt pho.

Hiện tại, hơn 70% trữ lượng phốt pho toàn cầu nằm ở Ma-rốc. Trữ lượng lớn nhất tiếp theo là ở Trung Quốc, nơi chỉ chiếm 5% tổng lượng phốt pho toàn cầu. Mặc dù Trung Quốc vẫn có nhiều phốt pho hơn mọi quốc gia lấy nguồn từ Ma-rốc, nhưng họ vẫn hạn chế xuất khẩu phốt pho vì hiểu nó có giá trị như thế nào.

Giống như khí tự nhiên, phốt pho là nguồn tài nguyên hữu hạn. Và bây giờ, có vẻ như chúng ta đang tiến đến mốc sản lượng đỉnh khai thác phốt pho. Trên thực tế, điều này có thể xảy ra ngay vào năm 2030 và với mức tiêu thụ như ở thời điểm hiện tại, thì đá photphorit sẽ biến mất hoàn toàn vào cuối thế kỷ này.

Đây là một vấn đề lớn vì sẽ không có chất thay thế phốt pho trong phân bón. Khi trở nên khan hiếm hơn, giá phốt pho sẽ tăng lên, có nghĩa là giá phân bón sẽ tăng lên, đồng nghĩa là – bạn đoán được điều này – giá thực phẩm cũng tăng.

Potassium

Và sau đó là thành phần quan trọng thứ ba trong phân NPK: kali. May mắn thay, vẫn còn rất nhiều mỏ kali trên khắp hành tinh, vì vậy chúng ta sẽ không sớm phải đối mặt với tình trạng cạn kiệt kali.

Tuy nhiên, việc chiết xuất kali đòi hỏi rất nhiều năng lượng. Đầu tiên, dầu diesel cần thiết để chạy máy nghiền đá. Sau đó, một quá trình tiêu tốn nhiều năng lượng sẽ tách kali khỏi phần khoáng chất còn lại.

Vì vậy, giống như hầu hết mọi thứ, giá năng lượng càng cao thì giá kali càng cao. Khi thế giới sắp đạt đỉnh sản lượng khai thác dầu mỏ (có thể điều này đã xảy ra vào năm 2018 rồi), thì việc khai thác kali và cô lập kali sẽ ngày càng trở nên đắt đỏ, đẩy chi phí phân bón lên cao hơn.

Như tôi đã phân tích rõ, giá phân bón càng cao đồng nghĩa với giá lương thực cao hơn. Giới chính phủ có thể trợ cấp cho nông dân, giúp họ dễ dàng mua phân bón hơn, nhưng sẽ đến lúc không có đủ phân bón để cung cấp và không có số tiền nào có thể giải quyết được vấn đề đó.

6. Xói mòn lớp Đất mặt

Hầu hết mọi người thậm chí còn không biết lớp đất mặt/đất thịt (topsoil) là gì, khi mà nếu không có lớp đất mặt kỳ diệu này, chúng ta thậm chí sẽ không tồn tại. Như Paul Harvey đã từng nói:

“Con người – mặc dù có thiên hướng nghệ thuật, sự tinh tế và đạt được nhiều thành tựu – nhưng sự tồn tại của anh ta/cô ta là nhờ lớp đất mặt dày 6 inch (khoảng 15cm) và thực tế là trời mưa”.

Lớp đất mặt không chỉ là bụi đất — đó còn là sự sống. Mỗi nắm đất mặt chứa hàng tỷ vi sinh vật như vi khuẩn, nấm, côn trùng nhỏ và thực vật, cùng với vô số khoáng chất như nitơ, phốt pho và kali (xem phần trước). Tất cả những thứ này phối hợp với nhau để tạo ra một môi trường mà ở trong đó, lương thực có thể phát triển.

95% thực phẩm của chúng ta đến từ lớp đất mặt, trực tiếp thông qua cây trồng hoặc gián tiếp thông qua chăn nuôi. Điều đó có nghĩa là lớp đất mặt có giá trị đặc biệt. Nó thậm chí còn có giá trị hơn khi bạn biết rằng phải mất 500 năm, mẹ thiên nhiên mới hình thành được một inch (2,5cm) đất mặt.

Thật không may, Hoa Kỳ đang sử dụng lớp đất mặt nhanh hơn gấp 10 lần so với khả năng tái tạo của nó. Điều này thậm chí còn tồi tệ hơn ở Trung Quốc và Ấn Độ, cả hai đều đang mất lớp đất mặt nhanh hơn từ 30-40 lần so với khả năng tái tạo. Theo UNCCD (United Nations Convention to Combat Desertification – Công ước Liên Hợp Quốc năm 1994 về Chống Sa mạc hoá), có đến 12 triệu mẫu đất nông nghiệp và 75 tỷ tấn đất màu mỡ bị mất đi mỗi năm do hạn hán, sa mạc hóa và suy thoái chất lượng đất.

Trên thực tế, một nửa lượng lớp đất mặt trên thế giới đã bị mất trong 150 năm qua. Và trước khi bạn nghĩ: “Chà, đó chỉ là một nửa trong 150 năm”, hãy nhớ rằng dân số ngày nay tăng gấp 5 lần, và điều đó có nghĩa là chúng ta đang sử dụng hết lớp đất mặt còn lại ngày càng nhanh chóng hơn. Đó là lý do tại sao một số chuyên gia tin rằng chúng ta chỉ còn lại 50 năm sử dụng lớp đất mặt.

Và không phải là chúng ta sẽ ổn trong 49 năm tới và đột nhiên vào năm thứ 50, tất cả cây trồng của chúng ta sẽ chết. Đúng hơn là, vấn đề xói mòn lớp đất mặt sẽ trở nên tồi tệ hơn theo cấp số nhân trong những thập kỷ tới và chúng ta sẽ thấy tình trạng thiếu lương thực lan rộng rất lâu trước khi lớp đất mặt biến mất.

Hiện tại, 1/3 diện tích đất trên thế giới đang bị thoái hóa nghiêm trọng do nông nghiệp, nhưng Liên Hợp Quốc cảnh báo rằng có tới 90% đất sẽ bị thoái hóa vào năm 2050. Khi đất bị xói mòn, phần lớn sẽ chảy ra sông ngòi, khiến chúng dễ bị ngập lụt và gây ô nhiễm nguồn nước do sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.

Trong những thập kỷ tới, năng suất mùa vụ sẽ giảm với tốc độ ngày càng nhanh, và cuối cùng phần lớn đất nông nghiệp của chúng ta sẽ bị bỏ hoang. Vậy thì điều gì có thể giải quyết được?

Thứ nhất, người nông dân nên thay đổi cách trồng trọt. Thay vì cày xới thâm canh, họ có thể chuyển sang phương pháp canh tác không cày xới. Họ cũng có thể trồng nhiều loại cây trồng đa dạng hơn và trồng cây che phủ để cải tạo đất hàng năm. Những việc này sẽ giúp ích cho vi khuẩn và nấm sống ở trong đất, từ đó hỗ trợ các loài thực vật và côn trùng có ích.

Mặc dù những phương pháp này đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây nhưng hầu hết người nông dân vẫn không sử dụng chúng do chi phí ban đầu. Sẽ dễ dàng hơn nếu tiếp tục làm mọi việc theo cách họ vẫn làm hơn là đầu tư vào các phương pháp và thiết bị mới, đặc biệt là khi mà hiện nay, phân bón đã trở nên quá đắt đỏ.

Rất có thể, chúng ta sẽ tiếp tục bào mòn lớp đất mặt cho đến khi chúng gần như biến mất. Trừ khi chúng ta tìm được cách trồng một lượng lớn thực phẩm bổ dưỡng mà không cần đất, nếu không chúng ta sẽ tiêu đời.

7. Côn trùng tuyệt chủng

Đáng sợ như việc mất lớp đất mặt, sự suy giảm của côn trùng trên khắp thế giới thậm chí còn kinh khủng hơn. Đó là, nếu bạn hiểu vai trò của côn trùng quan trọng như thế nào.

Có hơn 900.000 loài côn trùng trên Trái Đất, chiếm gần 2/3 trong số 1,5 triệu loài động vật được ghi nhận cho đến nay. Nói chung, tổng sinh khối của động vật chân đốt (bao gồm côn trùng, loài nhện và động vật giáp xác) nặng gấp 17 lần so với toàn bộ nhân loại.

Đây không phải là hành tinh của con người hay thậm chí của động vật có vú; đây là một hành tinh của côn trùng và bọ. Chỉ riêng lớp bọ cánh cứng đã chiếm 24% tổng số loài động vật được biết đến! Nếu không có côn trùng, gần như mọi hệ sinh thái trên Trái Đất sẽ sụp đổ. Nhưng tại sao lại thế?

Côn trùng thiết lập nền tảng của mạng lưới thức ăn sinh thái phức tạp trên toàn cầu. Nhà tự nhiên học người Mỹ E.O. Wilson gọi chúng là “những thứ nhỏ nhặt đang vận hành thế giới”. Chúng thực thi tất cả các loại dịch vụ thiết yếu mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày mà không hề nhận ra điều đó.

Ví dụ như, các loài côn trùng như ong và bướm giúp thụ phấn cho 75% cây trồng của chúng ta, bao gồm bông cải xanh, bắp cải, ca cao, cà phê, hành tây, cà chua và hầu hết các loại trái cây. Nếu không có loài thụ phấn, chúng ta sẽ không có những thực phẩm này.

Nhưng dịch vụ thụ phấn chỉ là một trong những lý do khiến chúng ta cần côn trùng. Chuồn chuồn kiểm soát muỗi mang mầm bệnh, bọ cánh vân ngăn các loài gây hại nông nghiệp như rệp phá hoại mùa màng và bọ cánh cứng loại bỏ phân khỏi môi trường, khuấy trộn đất, giữ cho đất khỏe mạnh.

Chúng ta cũng cần côn trùng để phân hủy thực vật và động vật chết, cũng như tái chế chất dinh dưỡng của chúng trở lại hệ sinh thái. Chỉ có côn trùng mới có thể dọn sạch hàng nghìn tỷ mảnh vụn hữu cơ tích tụ hàng năm. Vi khuẩn không thể làm điều đó một mình.

Nhưng trên hết, chúng ta cần côn trùng để kiến tạo nền tảng của chuỗi thức ăn, nuôi sống vô số loài chim, bò sát, lưỡng cư và động vật có vú. Nếu không có côn trùng, mạng lưới thực phẩm trên khắp thế giới sẽ sụp đổ, nông dân và chủ trang trại sẽ không thể sản xuất đủ để nuôi sống tất cả chúng ta. Tất cả những điều này là lý do tại sao giới khoa học cảnh báo rằng sự suy giảm của côn trùng có thể làm tăng đáng kể giá trị hóa đơn thực phẩm.

Nếu tất cả côn trùng biến mất, hàng trăm ngàn loài thực vật cũng sẽ không tồn tại được nữa, các loài chim và bò sát hầu như sẽ tuyệt chủng chỉ trong vài tháng. Loài gặm nhấm cũng sẽ gặp rắc rối, và ngay sau đó, các loài động vật có vú khác cũng phải chật vật tìm kiếm thức ăn.

Sự kết thúc của côn trùng theo nghĩa đen chính là sự sụp đổ của thiên nhiên. Và sự sụp đổ của thiên nhiên chính xác là những gì đang diễn ra. Các quần thể côn trùng trên khắp thế giới đang trải qua một sự suy giảm đáng sợ đến mức “xé nát tấm thảm nâng đỡ sự sống”.

Ở Vương quốc Anh, số lượng côn trùng bay đã giảm 60% kể từ năm 2004. Ở Đức, lượng côn trùng bay đã giảm 75% kể từ năm 1990. Ở Đan Mạch, số lượng côn trùng bay đã giảm 80% kể từ năm 1997. Và ở Puerto Rico, số lượng này đã giảm ít nhất 80% trong bốn thập kỷ qua.

Và hãy nhớ rằng hầu hết các nghiên cứu này được thực hiện ở các khu vực được bảo vệ, như khu bảo tồn thiên nhiên. Con số trên có thể còn tồi tệ hơn nhiều ở những khu vực xung quanh đô thị và đất nông nghiệp.

Nhìn chung, quần thể động vật không xương sống (bao gồm cả côn trùng) đã giảm 45% trong 40 năm qua. Hãy suy nghĩ về điều đó. Gần một nửa tổng số côn trùng trên thế giới bị tiêu diệt trong chỉ nửa đời người. Chúng ta sẽ ở đâu trong 40 năm nữa?

Hiện tại, tổng sinh khối của tất cả các loài côn trùng đang giảm với tốc độ 2,5% mỗi năm, mà điều này có thể dẫn đến 40% tổng số loài côn trùng sẽ tuyệt chủng trong vài thập kỷ tới. Với tốc độ này, côn trùng có thể gần như biến mất hoàn toàn trong vòng chưa đầy một thế kỷ. Đó là lý do tại sao một số nhà khoa học gọi nó là Ngày tận thế của Côn trùng (Insect Apocalypse).

Vậy tại sao điều này lại xảy ra? Tóm lại, đó là do: con người. Như được giải thích trong báo cáo nghiên cứu này, được xuất bản trên tập san Biological Conversation (Bảo tồn Sinh học), nguyên nhân chính của điều này là do mất môi trường sống (habitat los), ô nhiễm, các yếu tố sinh học và biến đổi khí hậu.

Tình trạng mất môi trường sống khá đơn giản. Khi chúng ta xây dựng nhiều đường sá, thị trấn, nhà cửa, nhà máy và trung tâm mua sắm hơn; và khi chúng ta chặt phá rừng để lấy đất chăn thả và xây dựng các trang trại độc canh khổng lồ, chúng ta sẽ để lại ít chỗ sống cho côn trùng hơn. Không có giải pháp nào cho phép chúng ta tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh của con người trong khi vẫn để lại nhiều đất cho côn trùng sinh sống.

Nạn ô nhiễm xuất hiện dưới nhiều dạng. Có các loại thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp có thể gây tử vong cho hầu hết các loài côn trùng, đặc biệt là ong, nhưng cũng còn do ô nhiễm tiếng ồn. Tiếng ồn lớn có thể cản trở các kiểu giao phối và săn mồi của côn trùng dựa vào tín hiệu âm thanh để tìm thức ăn hoặc giao tiếp với nhau.

Sau đó là vấn đề ô nhiễm ánh sáng. Nếu đã từng nhìn thấy hình ảnh chụp Trái Đất từ ​​không gian vào ban đêm, bạn có thể thấy chúng ta đã thay đổi thế giới về đêm đến mức nào. Ánh sáng nhân tạo làm nhầm lẫn những loài côn trùng dựa vào chu kỳ ngày và đêm mỗi ngày để tìm kiếm thức ăn, bạn tình và nơi ngủ an toàn trước những kẻ săn mồi.

Và tất nhiên, có cả ô nhiễm không khí nữa. Đây là một vấn đề lớn. Giới khoa học ước tính rằng số lượng loài thụ phấn bị suy giảm 70% do ô nhiễm không khí. Nguyên nhân là do ô nhiễm không khí làm thay đổi mùi hương của thực vật. Điều này làm cho ong và bướm bối rối, khiến chúng khó tìm được hoa để thụ phấn.

Các yếu tố sinh học tiêu diệt côn trùng bao gồm mầm bệnh và các loài xâm lấn tiêu diệt quần thể côn trùng địa phương khi hoạt động của con người ngày càng mở rộng sang nhiều khu vực hơn.

Khi con người đi du lịch vòng quanh thế giới bằng thuyền và máy bay, họ vô tình mang theo những loài côn trùng như mối ong (varroa mite), loài ăn chất dịch cơ thể của ong mật. Một vài thập kỷ trước, mối ong chỉ giới hạn ở Châu Á, nhưng giờ đây chúng đã lan rộng khắp thế giới, góp phần làm suy giảm quần thể ong mật.

Biến đổi khí hậu đang trở thành một vấn đề lớn hơn đối với côn trùng khi các kiểu thời tiết mà những loài thích nghi trong hàng nghìn năm đột nhiên bị thay đổi. Ví dụ như, nhiều loài côn trùng xuất hiện vào mùa xuân khi thời tiết ấm hơn và có nhiều thức ăn hơn. Tuy nhiên, nếu một đợt nắng nóng vào mùa đông xảy ra (chẳng hạn như đợt nắng nóng ở Châu Âu vào tháng 1 năm 2023), thì trứng côn trùng có thể nở trước khi có đủ thức ăn để nuôi chúng.

Và đó chỉ là một ví dụ thôi. Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi nhanh chóng các hệ sinh thái trên khắp thế giới, khiến toàn bộ một vùng có thể thay đổi từ rừng nhiệt đới sang thảo nguyên (savannah), hoặc từ thảo nguyên sang sa mạc, và điều đó diễn ra nhanh hơn mức côn trùng có thể thích nghi. Ngoài ra, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như lũ lụt và sóng nhiệt kỷ lục có thể gây chết hàng loạt và làm gián đoạn vòng đời của côn trùng.

Giới khoa học đã cảnh báo cho nhân loại về sự tuyệt chủng của côn trùng nhưng rất ít người chú ý đến. Nếu những gì bạn đã đọc cho đến lúc này không làm cho bạn sợ hãi thì có lẽ điều phân tích dưới đây sẽ làm được…

Trong suốt lịch sử Trái Đất, đã có 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt. Phần lớn các loài côn trùng đều sống sót sau những đợt tuyệt chủng này, ngoại trừ một đợt này: đó là giai đoạn đại tuyệt chủng thuộc kỷ Permi-Tam Điệp (Permian-Triassic). Nó đã giết chết 70% sự sống trên đất liền và 90% sự sống có ở trong đại dương. Đó là lý do tại sao nó thường được gọi là Sự Tàn lụi Vĩ đại (The Great Dying).

Ngày nay, tất cả dữ liệu thu thập được của chúng ta đều cho thấy tốc độ suy giảm của quần thể côn trùng đang nhanh hơn so với những gì đã xảy ra hồi thời kỳ The Great Dying.

Nhiều Lý do hơn sẽ Xảy ra tình trạng Thiếu Lương thực

Ban đầu, bài viết này dự định chỉ liệt kê ra 11 lý do, nhưng nó đã dài hơn tôi nghĩ rất nhiều. Vì vậy tôi sẽ để dành một số lý do khác cho các bài viết sau. Đây là một vài điểm xem trước:

Bất chấp sự suy giảm tổng thể của côn trùng, các loài bọ phá hoại vụ mùa của chúng ta thực sự đang gia tăng và sẽ tiêu thụ nhiều thức ăn hơn khi nhiệt độ tăng. Hiện tại, số lượng côn trùng ăn hại cây trồng của chúng ta phát triển chưa từng có.

Một mối đe dọa khác đối với nguồn cung cấp lương thực cho chúng ta chính là dịch bệnh. Hiện tại, chúng ta đang chứng kiến đại dịch cúm gia cầm tồi tệ nhất trong lịch sử. Căn bệnh lây lan nhanh này đã giết chết 43 triệu con gà mái vào năm ngoái và đây là một phần lý do khiến trứng và gia cầm đang trở nên đắt đỏ. Đây sẽ không phải là đại dịch chăn nuôi cuối cùng. Ngành chăn nuôi công nghiệp đang tạo ra một cơn bão hoàn hảo cho nhiều trận đại dịch hơn.

Một mối đe dọa khác là sự sụp đổ của nghề cá. Hiện tại, khoảng 3 tỷ người ăn cá như một phần trong chế độ ăn hàng ngày, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ không có đủ cá cho tất cả mọi người. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này: biến đổi khí hậunước biển ấm hơnô nhiễm thuốc trừ sâuhạt vi nhựanạn đánh bắt quá mức… Chúng ta đang trên đà tiêu diệt gần như toàn bộ sinh vật biển.

Và tất nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số loài người sẽ gây thêm căng thẳng cho nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta. Mặc dù tỷ lệ sinh đang giảm nhưng chúng ta vẫn tiếp tục bổ sung thêm khoảng 80 triệu người trên toàn cầu mỗi năm.

Theo Liên Hợp Quốc (UN), nhu cầu lương thực toàn cầu sẽ tăng 70% vào năm 2050. Tuy nhiên, tôi tin rằng dân số toàn cầu sẽ bắt đầu giảm từ lâu trước đó. Một số mô hình dự đoán xã hội sẽ sụp đổ do thiếu lương thực vào năm 2040.

Vậy tôi nên làm gì đây?

Trước tiên, bạn nên bắt đầu dự trữ lương thực. Hãy tập trung vào các mặt hàng thiết yếu như gạo, đậu, bột mì, mì ống và các thành phần cơ bản khác, sau đó học cách tự nấu ăn từ xử lý nguyên liệu thô. Vâng, việc đó sẽ phải tốn nhiều thời gian hơn, nhưng bạn sẽ tiết kiệm được tiền và sống khỏe mạnh hơn.

Bạn cũng nên học cách nấu ăn mà không cần điện vì tình trạng mất điện sẽ ngày càng trở nên phổ biến hơn trong những thập kỷ tới. Hãy thực hành nấu các bữa ăn trên vỉ nướng hoặc trên lửa than củi, và tránh sử dụng các thiết bị điện như lò nướng bánh và lò vi sóng.

Ngoài ra, bạn nên bắt đầu tập tự trồng lấy lương thực cho mình. Hãy tập trung vào các loại cây trồng có hàm lượng calorie cao và tìm hiểu cách bảo quản thu hoạch của bạn bằng cách đóng hộp và khử nước. Thực phẩm trồng tại nhà tốt cho sức khỏe hơn nhiều so với thực phẩm mua ở cửa hàng, và sẽ khiến bạn hài lòng hơn khi thưởng thức những món ăn do chính mình trồng.

Bạn có thể thắc mắc rằng, liệu việc trồng trọt và dự trữ lương thực để làm gì nếu nền văn minh sắp sụp đổ và tất cả chúng ta đều sẽ chết?

Đó là một câu hỏi công bằng. Hầu như chúng ta sẽ không thể trồng đủ lương thực để nuôi một gia đình và hoàn toàn sống tự cung tự cấp, và thậm chí nếu có thể, bạn sẽ phải đối mặt với vô số người cố gắng ăn trộm thức ăn hoặc chiếm đoạt nhà cửa của bạn.

Đây là cách tôi nhìn nhận điều đó: Khi xã hội tan rã, sẽ có những thảm họa tạm thời xảy ra trong quá trình đó. Rất lâu trước khi cuộc sụp đổ hoàn tất, sẽ xảy ra tình trạng mất điện tạm thời và thiếu lương thực tạm thời. Tôi tin rằng việc có đủ đồ dùng để sống sót qua thời kỳ đó cũng là điều đáng giá và thậm chí có thể giúp đỡ hàng xóm của bạn.

Hãy nhớ rằng, không ai biết trước được tương lai sẽ như thế nào cả. Mặc dù một số chuyên gia tin rằng toàn thể loài người sẽ tuyệt chủng vào cuối thế kỷ này, nhưng cũng có những người khác cho rằng vẫn còn vài tỷ người còn sót lại. Tôi tin rằng bạn nên làm mọi thứ có thể để cho bản thân hoặc con cái bạn một cơ hội chiến đấu và trở thành một trong số những người sống sót đó.

Nếu đến một ngày khi mọi thức ăn đã cạn kiệt và cái chết đến cận kề, hãy cứ làm như vậy. Trên thực tế, tôi khuyến khích mọi người hãy làm hòa với khả năng đó. Nhưng miễn là bạn hoặc người thân có cơ hội sống sót và giúp gieo mầm cho một xã hội mới, bền vững trong tương lai, thì bạn không nên bỏ cuộc.

BÌNH LUẬN CỦA HÀNH TINH TITANIC

Xem ra tác giả còn chưa liệt kê thêm các nguyên nhân sẽ làm trầm trọng nạn đói và an ninh lương thực, bao gồm:

  • Mực nước biển dâng sẽ nhấn chìm Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng – hai vựa lúa lớn của Việt Nam, và Việt Nam hiện là quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
  • Các động thái thu gom và nâng giá của thị trường thương mại lương thực sẽ khiến nhiều quốc gia mờ mắt vì ngoại tệ và sẵn sàng đánh đổi lương thực của họ trước sức quyến rũ của đồng tiền mà không hề tính đến rủi ro trước mắt và trong tương lai của biến đổi khí hậu sẽ tàn phá các vựa gieo trồng lương thực của chính họ.
  • Sức ép của chiến tranh và mâu thuẫn sắc tộc sẽ còn đẩy nhanh cuộc khủng hoảng lương thực trở nên gay gắt hơn nữa.

HÀNH TINH TITANIC

là một kênh thông tin phi lợi nhuận và độc lập. Chúng tôi không nhận đăng tin quảng cáo hoặc bất cứ nguồn tài trợ nào từ các chính phủ hay tập đoàn kinh tế, để giữ vững quan điểm nói thẳng, nói thật và nói chính xác về cuộc khủng hoảng khí hậu cho Cộng đồng dân cư Việt Nam – một trong những quốc gia sẽ bị tác động nặng nề vì cuộc khủng hoảng ĐỘT BIẾN KHÍ HẬU. Vì thế, mỗi khoản tiền bạn đọc đóng góp cho chúng tôi đều sẽ giúp bảo vệ và phát triển kênh thông tin duy nhất bằng Tiếng Việt về biến đổi khí hậu này. Xin cảm ơn.

ỦNG HỘ HÀNH TINH TITANIC

Hiển thị ý kiến phản hồi (0)

Phần chia sẻ ý kiến

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Bài liên quan

Bão - mưa lớn - lũ

TIN CỰC XẤU VỀ BÃO USAGI

Lúc 12 giờ trưa ngày 24/11/2018, 1. Đường đi của cơn bão USAGI – cơn bão số 9 vừa được JTWC và Cơ quan Khí tượng Nhật Bản điều chỉnh về phía Nam hơn nữa, nghĩa là cơn bão sẽ...

Đã đăng ở by hanhtinhtitanic
Siêu bão/Lốc xoáy

CON MẮT CỦA SIÊU BÃO KAMMURI

Con mắt của siêu bão Cat. 3 KAMMURI mà chúng tôi thông báo tăng cấp cận bờ trong status dưới đây đã hiện rõ. Con quái vật này được dự báo sẽ đổ bộ vào Philippines sáng mai và lượn...

Đã đăng ở by hanhtinhtitanic