TIN BUỒN SỐ 3
HIỆU ỨNG CHE MỜ KHÍ QUYỂN CỦA BỤI MÙ Ô NHIỄM (AEROSOL MASKING EFFECT / GLOBAL DIMMING) Ngày 11/9/2001, sau khi hai chiếc máy bay của hãng hàng không American Airlines và United...
Lọc theo mục lục
HIỆU ỨNG CHE MỜ KHÍ QUYỂN CỦA BỤI MÙ Ô NHIỄM (AEROSOL MASKING EFFECT / GLOBAL DIMMING) Ngày 11/9/2001, sau khi hai chiếc máy bay của hãng hàng không American Airlines và United...
Số người chết chỉ mới chạm mốc 35 dù Nhật là quốc gia công nghiệp, có công tác phòng chống bão, di tản cộng đồng khá tốt, ý thức người dân không xem thường thảm họa, và HAGIBIS đã...
Thấy trên mạng ai cũng khen vùng đô thị ven Tokyo của Nhật “ngập nước vì cơn bão Hagibis hôm qua, nhưng không thấy rác vì nước vẫn xanh trong”. Có lẽ mọi người vẫn...
ĐỊNH LUẬT HENRY, DÒNG NHIỆT-TỶ TRỌNG (THERMOHALINE CIRCULATION) VÀ PHYTOPLANKTON Trong bản báo cáo mới nhất “The Ocean and Cryosphere in a Changing Climate” (Đại dương và Băng...
Hãy xem cuộc chiến giữa băng giá và lửa hồng xảy ra ở ngay trong lòng nước Mỹ. Từ phía Bắc, một khối khí lạnh đang di chuyển về hướng Đông Nam, đẩy lùi không khí nóng ở bờ Đông...
New York Times nêu nhận định của các chuyên gia khí tượng về siêu bão HAGIBIS: 1. Ts. Brandon Bukunt tại Dịch vụ Khí tượng Quốc gia Hoa Kỳ (Tiyan, Guam): – HAGIBIS sẽ đổ...
Cái gì phải đến cũng đã đến. Trong ba ngày 8,9,10/10/2019 vừa qua, báo Nga, Mỹ, Anh đồng loạt đưa tin về một nhóm chuyên gia nghiên cứu hiện tượng băng tan rã tại Bắc Cực thuộc...
Tin từ NOAA xác nhận vào ngày 8/10/2019: Siêu bão HAGIBIS hiện đang là cơn bão mạnh nhất trên hành tinh, và có thể trở thành cơn bão mạnh nhất trong năm 2019. JTWC (Trung tâm Cảnh...
Siêu bão HAGIBIS tăng cấp như một khối thuốc nổ giữa khu vực Tây Thái Bình Dương! Cách đây 24 giờ (lúc 10:00 giờ UTC ngày 6/10/2019), HAGIBIS vẫn còn là 1 cơn bão nhiệt đới với...
Một cậu bé tại thị trấn Kakamega, Kenya, phải quỳ xuống uống vũng nước bẩn vì không còn nguồn nước uống nào khác trong khu vực. Tất cả đều cạn kiệt sau khi người ta phá rừng. Việc...
Ngày 11/9/2001, sau khi hai chiếc máy bay của hãng hàng không American Airlines và United Airlines đâm vào tòa tháp đôi World Trade Center, cũng như một chiếc khác thành công trong việc phá hủy một phần của Lầu Năm Góc, trong một nỗ lực kiểm soát tình hình, Cơ quan Hàng không Liên bang Mỹ (FAA) đã cấp tốc ra lệnh cấm bay trên toàn bộ lãnh thổ Hoa Kỳ, yêu cầu khoảng 4.000 chiếc máy bay hiện đang ở trên không phận nước Mỹ – ngoại trừ máy bay quân sự, cảnh sát và cấp cứu – phải hạ cánh ngay lập tức tại bất cứ nơi đâu có thể được. Tiếp sau đó, giới chức chính quyền Canada cũng bắt chước theo người Mỹ. Lệnh cấm bay hoàn toàn có hiệu lực cho đến khi bắt đầu được hủy bỏ vào ngày 13/9/2001, khi nước Mỹ hoàn hồn trở lại sau cú sốc kinh hoàng. Mời các bạn xem clip về trạng thái không lưu của Hoa Kỳ trước và sau khi lệnh cấm bay có hiệu lực:
Nhưng cũng trong thời gian ấy, giới khoa học khí hậu Mỹ cũng khám phá ra một sự thật kinh khủng khác.
Ts. Andrew Carleton, một nhà địa lý học thuộc Đại học Pennsylvania State, hồi tưởng lại như sau: “Tôi nhớ mình đi bộ đến văn phòng làm việc (trong những ngày sau vụ tấn công), và thắc mắc về việc tại sao bầu trời lại trở nên trong xanh đến thế.” Ông này đã đề cập đến điều đó với đồng nghiệp, và cũng là học trò nghiên cứu sinh tiến sĩ của ông, Ts. Davis Travis thuộc Đại học Wiscousin, White Water, người cũng đang nhận thấy sự khác biệt ấy ở trên bầu trời. Thế là họ quyết định xem xét nhiệt độ nền của toàn nước Mỹ trong những ngày tháng 9 định mệnh ấy, và so sánh chúng với nhiều năm trong quá khứ.
Sau khi so sánh mức nhiệt cao nhất ban ngày và mức nhiệt thấp nhất vào ban đêm, Ts. Carleton và Ts. Travis khám phá ra rằng, nền nhiệt trung bình hàng ngày của nước Mỹ trong thời gian cấm bay (3 ngày) đã tăng lên hơn 1°C so với trước đó. Đối với người bình thường, mức chênh lệch nhiệt độ ấy không có gì là đáng để ý, nhưng với quan điểm của giới nghiên cứu khí tượng, đó là một mức tăng khổng lồ.
Ts. Travis nói trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC (Anh Quốc) như sau:
“Dữ kiện ban đầu được lấy từ hơn 5.000 trạm quan trắc khí tượng đặt tại 48 tiểu bang của nước Mỹ lục địa – nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi lệnh cấm bay.
Khi chúng tôi nhìn vào dữ liệu khí tượng và bằng chứng ấy bắt đầu hiện ra rõ ràng, tôi cảm thấy ngày càng tò mò và phấn khích. Kết quả thực tế còn lớn hơn cả điều tôi trông đợi. Ở đây, chúng tôi nhận thấy 3 ngày trước khi sự kiện 11/9 xảy ra, nền nhiệt vẫn ở giá trị âm với nhiều đường khói máy bay thải ra. Rồi sau đó, chúng tôi ghi nhận được một khoảng tăng nhiệt đột biến trong vòng 3 ngày (từ ngày 11/9 đến ngày 13/9/2001). Hiện tượng này phản ánh việc bầu trời không có mây, không có các làn khói máy bay thải ra, ban ngày nóng hơn, ban đêm lạnh hơn, chính xác với những gì chúng tôi nghĩ nhưng lại ở mức độ lớn hơn so với trông đợi. Như vậy, điều đó cho thấy trong vòng 3 ngày, chúng ta đột nhiên bị mất lớp màn che mờ khí quyển do ngành hàng không tạo nên như thường thấy”.
Xem cuộc phỏng vấn tại đây:
Và báo cáo khoa học về hiện tượng này tại đây:
Phát hiện này của Ts. Travis và Ts. Carleton đã chứng minh cho một vài nghiên cứu và kinh nghiệm trước đó từng xảy ra trong lịch sử. Ví dụ như vào tháng 5/1944, các nhà khoa học Anh quốc ghi nhận rằng, trong một cuộc cất cánh và bay vào Châu Âu tấn công Đức Quốc Xã của hơn 1.400 máy bay quân Đồng minh, khói thải ra từ động cơ máy bay đã làm giảm nền nhiệt ban ngày của toàn nước Anh xuống đáng kể – với đủ lượng có thể đo lường được. Xem:
Một kinh nghiệm khác tại Israel trước đó 40 năm cũng chứng minh cho điều tương tự, bằng công trình nghiên cứu đo lường về bức xạ nhiệt của ánh nắng Mặt Trời, do một nhà sinh vật học tên là Gerald Stanhill, thu được trong khi ông đang hoàn thiện hệ thống tưới tiêu nông nghiệp cho quốc gia này. Vì Israel rất coi trọng chuyện trồng được cây trên mảnh đất thường xuyên khô cằn thuộc khu vực Trung Đông của họ nhưng vẫn tiết kiệm được lượng nước tối đa, nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn nước (vì nước cũng quan trọng không kém cho sinh tồn của cư dân tại đây), nên vào thập niên 1950, Ts. Gerald Stanhill đã thu thập rất tỉ mỉ và cẩn thận dữ liệu về sức nóng của bức xạ Mặt Trời trên toàn lãnh thổ Israel, bằng cách đo lường lượng nước bốc hơi sau một khoảng thời gian phơi dưới ánh nắng. Sau đó, ông đã chế ra hệ thống tưới nhỏ giọt nổi tiếng của Israel, điều tiết một lượng nước vừa đủ để làm ẩm đất mà không bị bốc hơi nhanh chóng dưới sức nóng của ánh sáng Mặt Trời. Sau đó gần 30 năm, vào thập niên 1980, Ts. Gerald thực hiện lại các phép đo lường bức xạ nhiệt của ông để xem chúng có còn hiệu quả hay không. Và ngay sau đó, ông đã vô cùng kinh ngạc: bức xạ nhiệt tại Israel đã suy giảm đến 22% mức độ so với thập niên 1950 – một lượng giảm rất lớn và đáng kể.
Điều mà Ts. Gerald Stanhill nhận thấy tại Israel cũng giống như những ghi nhận của Ts. Beate Liepert (một nhà nghiên cứu khí tượng thuộc Trạm Quan trắc Trái Đất Lamont-Doherty), với những gì đang xảy ra trên dãy núi Bavarian Alps tại nước Đức.
Sau đó, Ts. Liepert và Ts. Stanhill đã cùng bắt đầu tìm kiếm những nghiên cứu khoa học, số liệu khí tượng, thông tin báo chí ghi nhận về vấn đề này trên khắp thế giới. Họ đã thu thập được nhiều thông báo tương tự về việc bức xạ nhiệt Mặt Trời chạm đến bề mặt Trái Đất đã suy giảm trên toàn cầu từ thập niên 1950 đến đầu thập niên 1990, với mức 9% tại Nam Cực, 10% ở Mỹ, gần 30% tại Nga, và 16% ở một số khu vực thuộc quần đảo Anh Quốc (British Isles). Đây thực sự là một hiện tượng phổ quát đang xảy ra khắp nơi trên thế giới. Xem:
Một dự án khác mang tên Project INDOEX do nhiều quốc gia cùng hợp tác thực hiện tại quần đảo Maldives cũng chứng minh cho hiện tượng trên. Quần đảo này nằm giữa Ấn Độ Dương, không có nền công nghiệp đốt nhiên liệu hóa thạch, nên về nguyên tắc, nó dường như không bị ô nhiễm bởi sinh hoạt của dân cư trên đảo nhiều lắm. Tuy nhiên, thật ra các đảo phía Bắc vẫn bị che phủ bởi một dòng bụi thổi ra từ Ấn Độ. Trong khi đó, phần các đảo phía Nam lại hoàn toàn hưởng không khí trong sạch từ Nam Cực chuyển lên vùng xích đạo. Cả quần đảo đều nằm trong đới khí hậu xích đạo và có chiều dài không vượt quá 300km. Do đó, sự khác biệt về nền nhiệt và kiểu mẫu khí hậu không lớn lắm. Cuối cùng, sau quá trình thu thập dữ kiện và so sánh giữa nền nhiệt của các đảo phía Bắc và các đảo phía Nam, khối không khí ô nhiễm bụi ở phía Bắc có độ dày hơn 3km đã có một hiệu ứng chắn nhiệt từ bức xạ Mặt Trời đáng kinh ngạc là hơn 10%. Giới nghiên cứu giải thích rằng hàng tỷ hạt bụi trong không khí ô nhiễm đã tạo ra thêm gấp 10 lần điều kiện cho hơi nước tích tụ xung quanh chúng, từ đó hình thành các đám mây với nhiều hạt tinh thể nước hơn, có khả năng phản xạ ánh sáng Mặt Trời trở lại không gian hơn, che chắn phần lớn bức xạ Mặt Trời chiếu qua chúng và chạm được đến mặt đất.
Thậm chí ảnh hưởng của lớp bụi trong không khí này đã tác động lên lượng mưa và các cơn hạn hán tại vùng Sahel (Ethiopia, Châu Phi). Nghiên cứu (của (Rotstayn và Lohmann, năm 2002) cho thấy vì các lớp không khí ô nhiễm nặng mà Mỹ và Châu Âu thải ra ở Bắc Bán Cầu nên nhiệt độ nước biển Bắc Đại Tây Dương đã suy giảm so với nền nhiệt đang gia tăng ở khu vực xích đạo, khiến nước biển lạnh đi một phần và do đó, thiếu hụt lượng nhiệt cần thiết để kéo vành đai mưa lên phía Bắc, đi qua Sahel, gây ra cơn hạn bà chằng và nạn đói khủng khiếp tại đây vào năm 1984. Từ khi các quốc gia ở Châu Âu bớt xả khói lên bầu trời và có chính sách quản lý chất lượng không khí tốt hơn kể từ năm 2005, thì mưa lại về tại Sahel.
Rõ ràng là, khói thải ra từ động cơ máy bay đã có ảnh hưởng rất lớn đối với nền nhiệt khí hậu – và trong thời gian ngắn hạn (chỉ vài giờ đến 1 ngày). Các loại khói bụi khác đến từ nguồn phát thải của con người như việc đốt nhiên liệu hóa thạch, than đá, củi gỗ, muội than từ ống xả các nhà máy, bụi mù từ ngành xây dựng công trình, giao thông đường bộ, mặt đất nông nghiệp bị xới tung lên, cháy rừng và phá rừng, đun nóng nước làm bốc hơi trong sinh hoạt nấu ăn… Bên ngoài thiên nhiên, các cơn bão cát, bão nhiệt đới, muối bốc hơi từ đại dương, núi lửa phun cũng góp phần vào nguồn khói bụi này. Tất cả tạo nên một bức màn các hạt bụi nhỏ li ti muội than (carbon đen), bụi công nghiệp, bụi thiên nhiên và khí sulphur dioxide (SO₂), che mờ khí quyển Trái Đất, làm giảm hiệu suất chiếu xuống bề mặt hành tinh của bức xạ Mặt Trời, gọi là hiện tượng Mờ Đi Toàn Cầu (Global Dimming). Hiện tượng này là hai mặt của một cuộc khủng hoảng lớn, được phân tích như dưới đây:
A. Ở mặt bên này, chính nhờ lớp bụi che mờ và hiệu ứng Aerosol Masking Effect mà nền nhiệt khí hậu Trái Đất không nóng lên nhanh chóng một cách đáng kể. Khả năng chắn nhiệt của nó có thể lên đến từ 22% – 30% (theo báo cáo khoa học của Ts. Liepert và Ts. Stanhill). Một nghiên cứu mới nhất từ Gs. Daniel Rosenfeld thuộc Đại học Hebrew (Jerusalem, Israel) vào tháng 2/2019 cho biết mức độ mà bụi ô nhiễm chắn bức xạ Mặt Trời đã bị xem nhẹ bởi giới nghiên cứu chính thống về biến đổi khí hậu của cả Liên Hiệp Quốc (IPCC) và các nhà khoa học khí hậu không chính thống (như James Hansen – cựu giám đốc Goddard NASA chẳng hạn). Cùng với đồng nghiệp là Ts. Yannian Zhu (thuộc Viện Nghiên cứu Khí tượng của tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), Rosenfeld đã phát triển một phương pháp mới sử dụng các hình chụp từ vệ tinh để tính toán riêng rẽ hiệu ứng của các luồng gió bốc lên theo chiều dọc (vertical winds) và số lượng các đám mây có chứa bụi ô nhiễm kết tụ các giọt nước.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, về nguyên tắc, mây hình thành khi gió bốc hơi nước lên từ mặt đất/đại dương và lạnh đi. Tuy nhiên, thành phần cấu tạo nên mây lại được quyết định phần lớn bởi các hạt bụi trong không khí. Mây ở tầng thấp càng chứa nhiều hạt bụi bao nhiêu, thì càng giữ được nhiều giọt nước bấy nhiêu. Mưa xảy ra khi những giọt nước nhỏ này kết hợp được với nhau. Vì cần thời gian để khiến các giọt nước nhỏ có thể kết tụ thành các giọt nước mưa lớn, nên các đám mây bị “ô nhiễm” và chứa đầy bụi vi hạt sẽ có khả năng chứa được nhiều nước hơn, tồn tại ở trên không trung lâu hơn (trong khi chúng chờ cho các giọt nước kết tụ lại thành mưa và rơi xuống đất, là nguyên nhân khiến mây tan đi) và bao phủ cả một vùng rộng lớn. Trong quá trình hình thành mây đó, các đám mây chứa đầy bụi ô nhiễm sẽ có khả năng phản xạ lại ánh sáng Mặt Trời ngược vào không gian, và do đó làm mát bớt nền nhiệt của toàn Trái Đất. Vậy hiệu ứng làm mát ấy lớn như thế nào? Cho đến nay, tất cả mọi tính toán ước lượng khoa học đều không đáng tin cậy, vì chúng ta không thể tách hiệu ứng gió bốc lên để hình thành mây với hiệu ứng của bụi ô nhiễm quyết định thành phần của các đám mây.
Nhưng Gs. Daniel Rosenfeld và các cộng sự đã làm được điều đó. Họ áp dụng phương pháp chụp “cắt lớp” các đám mây ở tầng thấp đang bao phủ bên trên đại dương ở khu vực giữa đường xích đạo và vĩ tuyến 40° Nam, tính toán chính xác hiệu ứng che bức xạ nhiệt của mây chứa bụi ô nhiễm với ngân sách năng lượng mà Trái Đất nhận được trong cùng thời điểm. Và điều đáng sợ chính là họ thấy rằng, hiệu ứng làm mát của bụi ô nhiễm gấp hai lần so với giới khoa học trước đây từng nghĩ.
Xem nghiên cứu của Gs. Daniel Rosenfeld tại đây:
Tuy nhiên, nếu điều này là thật, thì rõ ràng là nền nhiệt Trái Đất đang nóng lên, chứ không phải mát đi, nhờ các chứng cứ thông số khí hậu mới nhất tại Châu Âu, Bắc Mỹ và ngay cả vùng cận cực như Siberia và Alaska, phải không? Và tỷ lệ bụi ô nhiễm do xe cộ, nhiệt điện, nông nghiệp, cháy rừng, đốt nhiên liệu hóa thạch trên toàn cầu tại thời điểm này vẫn còn rất cao, nên dĩ nhiên hiệu ứng che mờ khí quyển của bụi ô nhiễm vẫn đang tồn tại chứ chưa mất đi. Vì thế, theo Gs. Rosenfeld, sự trái ngược này có thể đưa đến một kết luận về thực tại đáng lo lắng và kinh khủng hơn. Ông nói: “Nếu thực là bụi ô nhiễm đang tạo ra hiệu ứng làm mát mạnh mẽ hơn so với điều chúng ta nghĩ trước đây, thì rõ ràng là khả năng giữ nhiệt của các khí gây hiệu ứng nhà kính còn lớn hơn chúng ta tưởng, cho phép hiệu suất giữ nhiệt của khí nhà kính có thể vượt trội hơn cả hiệu ứng chắn nhiệt của bụi ô nhiễm, và sẽ dẫn đến mức độ nóng lên toàn cầu nhiều hơn chúng ta từng hiểu.”
Ở cuối bản nghiên cứu của Rosenfeld và các cộng sự, họ trích dẫn một kết luận gần tương tự như của một nghiên cứu khoa học trước đó được thực hiện bởi Ts. Hiram Levy II, người từng đứng đầu Phòng Thí nghiệm Động lực Chất lỏng Địa Vật lý (Geophysical Fluid Dynamics Laboratory) của NOAA (Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Hoa Kỳ) và các cộng sự vào tháng 1/2013. Xem:
Kết luận của Ts. Levy và các cộng sự (năm 2013) chỉ rõ rằng một sự cắt giảm chỉ 35% hoạt động công nghiệp của loài người (tức là giảm xả thải gây ô nhiễm) có thể nâng nền nhiệt toàn cầu lên thêm 1°C.
Còn kết luận của Gs. Rosenfeld và các cộng sự (năm 2019) gợi ý rằng, chỉ cần cắt giảm 20% hoạt động công nghiệp cũng đủ để hâm nóng cả hành tinh lên +1°C trong vòng vài ngày đến vài tuần.
Điều này rõ ràng gây sốc, nhưng thực tế những gì đã xảy ra từ ngày 11/9/2001 đến ngày 13/9/2001 chứng minh rằng nếu chúng ta loại bỏ chỉ một yếu tố xả thải bụi khí tạo nên lớp màn che chắn bức xạ Mặt Trời (như khói từ động cơ máy bay chẳng hạn), thì chỉ trong vòng 3 ngày, chúng ta có thể cảm nhận được mức tăng nhiệt đáng kể dưới mặt đất tại khu vực nhất định. Nếu làm như thế trên phạm vi toàn cầu, thì điều đó sẽ xảy ra với cả hành tinh này, và sẽ là cả một thảm họa lớn, vì mức tăng nhiệt chỉ 1°C cũng sẽ đẩy nền khí hậu, địa chất và hệ sinh thái sụp đổ hàng loạt.
Như vậy, việc giải quyết vấn đề ô nhiễm, hô hào cắt giảm khí thải công nghiệp, loại bỏ bức màn bụi đang bao phủ bầu khí quyển của hành tinh sẽ thậm chí còn làm cho nền nhiệt Trái Đất nóng lên nhiều hơn và nhanh hơn. Và điều này không phải là trên lý thuyết, vì có thể nó đã đang xảy ra rồi. Ở Tây Âu, cùng thời gian sau khi một số quốc gia xử lý nạn không khí ô nhiễm, người dân ở đây đã bắt đầu nhận thấy nền nhiệt tại Châu lục này gia tăng, ví dụ như cơn sóng nhiệt xảy ra hồi mùa hè năm 2003, khiến 30.000 người chết, cháy rừng ở Bồ Đào Nha, và băng tan trên đỉnh Alps.
Con người vẫn chưa hiểu rõ các hiệu ứng che mờ khí quyển của bụi mù ô nhiễm. Thậm chí muội than carbon đen (black carbon) đang lơ lửng trên trời có nguồn gốc từ cháy rừng, đốt than đá, đốt củi… có cả hai tác dụng, vừa chắn nhiệt, vừa giữ nhiệt, gây ấm lên khoảng không gian xung quanh chúng trước khi lắng xuống mặt đất bằng cách hấp thụ và cả phản chiếu bức xạ Mặt Trời, tạo ra suất phân chiếu (albedo) phức tạp, chia nhiệt lượng ra nhiều hướng khiến các công cụ đo lường khoa học không thể phân biệt chính xác nguồn nhiệt từ đâu ra. Thực ra, hiệu ứng che mờ khí quyển của bụi mù ô nhiễm (aerosol masking effect) là một trò chơi có nhiều mặt, nhiều yếu tố mới mẻ, không thể lường trước được và con người hiện chỉ có thể hiểu được chúng nhờ kinh nghiệm thực tế.
Ngoài ra, điểm khác biệt lớn nhất giữa bụi mù ô nhiễm với khí nhà kính chính là bụi mù có vòng đời tồn tại trong bầu khí quyển rất ngắn, và chúng dễ dàng bị lắng xuống mặt đất sau những trận mưa. Xem:
Điều này dẫn đến nỗi lo ngại thực tế rằng khi loài người cắt giảm bớt lượng phát thải khí ô nhiễm thì sẽ làm cho bức màn bụi tạo hiệu ứng che mờ khí quyển khỏi bức xạ Mặt Trời biến mất nhanh chóng chỉ trong vài ngày, khiến nền nhiệt Trái Đất gia tăng đột biến.
B. Ở mặt bên kia, việc đốt nhiên liệu hóa thạch, hoạt hóa nền công nghiệp bằng năng lượng bẩn, không chỉ sản xuất ra các chất khí nhà kính không nhìn thấy được như carbon dioxide, methane, nitrous oxide… Nó còn tung lên và tạo ra rất nhiều các vi hạt bụi ô nhiễm, lơ lửng trong bầu khí quyển, có kích thước từ 0,5μm đến 2,5μm, bao phủ nhiều siêu đô thị và thành phố lớn. Bụi vi hạt kích thước PM2.5 trở xuống đặc biệt gây tác hại kinh khủng đến sức khỏe của con người, chui vào phổi, xâm nhập trong mạch máu, và ngay cả truyền qua được cả bào thai. Cho đến năm 2015, khí sulfur dioxide (SO₂) và khí bụi aerosol sulfat (SOx) có đầy trong bụi khí quyển – với nguồn phát thải từ các nhà máy điện, trạm điện cao thế, công xưởng… đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt tại Châu Phi, khu vực Đông Á (Trung Quốc), Nam Á (Ấn Độ) và Bắc Mỹ. Xem:
Khí sulfur dioxide và các gốc sulfate sẽ kết hợp với hơi nước, gây ra hiện tượng mưa a-xít có độ pH khoảng từ dưới 5.2, tàn phá mùa màng, khiến cây cối không lớn lên được, làm suy thoái chất lượng đất đai, làm tăng độ a-xít lớp nước mặt trong hồ, ao, biển theo quy trình phản ứng như sau:
S + O₂ → SO₂
SO₂ + OH- → HOSO₂-
HOSO₂- + O₂ → HO₂- + SO₃
SO₃ + H₂O → H₂SO₄ (acid sulfuric)
Với hậu quả ghê gớm như vậy, nhưng khí SO₂ lại là thành phần khí có khả năng che mờ bức xạ nhiệt/tạo ra hiện tượng phản xạ khuếch tán nhiệt (albedo) rất hiệu quả. Bằng chứng là trong quá khứ lịch sử địa chất của hành tinh Trái Đất (cuối Kỷ Permi – đầu Kỷ Trias, cách đây 251,9 triệu năm), đã có những giai đoạn các núi lửa phun trào hàng loạt, giải phóng một lượng lớn khí SO₂ vào bầu khí quyển, gây mưa a-xít đậm đặc, khiến nền khí hậu lúc lạnh, lúc nóng (do lượng dung nham khổng lồ chảy tràn trên mặt đất), tiêu diệt 96% tổng số sinh vật trong thời điểm đó, gây ra một cuộc đại tuyệt chủng lớn nhất lịch sử hành tinh cho đến nay.
Con người rõ ràng không hiểu điều họ đang làm khi chưa nhận thức chính xác những nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu. Chúng ta cứ nghĩ mình đang sống trong một thế giới đang nóng lên, nhưng thực sự không phải thế. Thật ra, chúng ta đang sống chung với cả hai mặt trái ngược nhau của cùng một vấn đề: hiện tượng nóng lên toàn cầu (global warming) và hiện tượng che mờ toàn cầu (global dimming). Đó là hai thái cực như âm với dương, bỏ đi một cái thì sẽ nhận lại hậu quả cực độ của cái kia.
Dù nỗ lực lý trí và mang tính biện lý khoa học đến đâu, bộ não của chúng ta vẫn bị các giác quan lừa dối và dẫn dắt sai lạc. Chúng ta chứng kiến các cơn bão, nạn hạn hán, sóng nhiệt xảy ra, và cảm giác nóng lôi kéo gần như tất cả giới khoa học khí hậu tập trung nghiên cứu vào hiệu ứng giữ nhiệt và gây tăng nhiệt của khí thải công nghiệp đối với nền khí hậu. Nhưng đó chỉ là một phần hiện ra bên ngoài ánh sáng của vấn đề. Chúng ta quên mất rằng tác nhân giết người ấy đang bị kềm giữ bởi một yếu tố sát nhân còn ghê gớm hơn đang ẩn trong bóng tối. Và vì chúng ta đánh giá sai lầm sức mạnh của kẻ trong bóng tối ấy, nên dĩ nhiên, chúng ta cũng đánh giá sai khả năng của kẻ đứng ngoài ánh sáng.
Và như vậy, có thể mọi kịch bản dự báo của IPCC (Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu của Liên Hiệp Quốc) đều sai lệch nghiêm trọng – cho dù cái ủy ban này có được trao giải Nobel Hòa Bình năm 2007. Và hiện nay, đại đa số cá nhân, tổ chức, kênh truyền thông bảo vệ môi trường, như cô bé Greta Thunberg, Cựu Phó Tổng thống Mỹ Al Gore, phong trào Extinction Rebellion, IPCC, chính sách Green New Deal của Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ… vẫn hô hào cắt giảm phát thải khí công nghiệp, tránh gây ô nhiễm không khí, chuyển sang sử dụng năng lượng sạch để bảo vệ nền khí hậu… Người dân Việt Nam cũng vậy, vì chúng ta đang trong cơn khủng hoảng đối mặt với các bức màn trắng đục của không khí ô nhiễm có chỉ số bụi PM2.5, PM1.0 lên đến hơn 200 tại Hà Nội và Sài Gòn trong thời gian vào tuần trước. Nhưng tất cả không hiểu rằng, kẻ sát nhân thầm lặng này lại chính là kẻ đang bảo vệ chúng ta khỏi hiểm họa tăng nhiệt nhanh hơn và kinh khủng hơn. Hoặc người Việt Nam tại Hà Nội và Sài Gòn tiếp tục chọn lựa hít khí ô nhiễm để “vui hưởng cảm giác mát mẻ thơ mộng như Đà Lạt” vào những lúc bầu khí quyển trên các đô thị lớn bị ô nhiễm bụi cực độ, hoặc họ sẽ hít khí trời trong lành nhưng chịu trận với cảm giác nóng hơn 40°C của những ngày hè trong tháng 4, tháng 5, tháng 6 vừa qua.
Thiên nhiên rõ ràng đang khởi động một trò chơi nghịch lý đối với loài người, mà gần đây, giới khoa học gọi là “McPherson Paradox” (nghịch lý McPherson), được cảnh báo bởi nhà khí tượng học Guy McPherson từ hơn hai thập kỷ qua. Ông cho biết hiện loài người chỉ có hai chọn lựa:
A) nếu chúng ta không ngừng việc đốt nhiên liệu hóa thạch và cắt giảm phát thải CO₂ cùng nhiều khí công nghiệp khác vào bầu khí quyển, thì cuối cùng, lượng khí nhà kính cộng với bụi mù ô nhiễm gia tăng cũng sẽ giết chết chúng ta bằng nhiều cách (hủy hoại sức khỏe, gây sốc nhiệt, mưa a-xít, siêu bão, hạn hán…)
hoặc
B) nếu chúng ta ngừng việc đốt nhiên liệu hóa thạch, các hạt bụi trong không khí sẽ biến mất, bức màn chắn bớt bức xạ Mặt Trời của hiệu ứng che mờ khí quyển của bụi mù ô nhiễm bị dỡ bỏ, loài người và hệ sinh thái trên Trái Đất sẽ phơi mình ra ngay lập tức dưới gần 100% bức xạ Mặt Trời được giữ nhiệt lại bởi một mật độ 415ppm khí carbon dioxide, và nền nhiệt toàn cầu sẽ tăng hơn 1°C chỉ trong vòng vài tuần lễ. Mức tăng nhiệt đột biến này sẽ khởi động một tiến trình sụp đổ lớn hơn, mà đã được chứng minh bởi ngành khảo cổ địa chất, vì cách đây 5 triệu năm, ở Thế Thượng Tân (Pliocene), mật độ carbon dioxide trong bầu khí quyển chạm mức hơn 400ppm và nền nhiệt Trái Đất đã nóng hơn từ 3°C đến 4°C với mực nước biển dâng cao 40 mét so với hiện nay.
Rõ ràng là con người không còn cơ hội nào nữa. Hiểm họa tuyệt chủng đã được báo trước từ rất lâu. Hiểm họa tuyệt chủng đã bị phớt lờ bởi hệ thống kinh tế tư bản.
Cái bẫy đã được mở ra. Con chuột đã chui vào bên trong cái bẫy. Nếu nó không cắn mồi để cái bẫy sập xuống chết cho nhanh, thì cũng sẽ phải chịu tù ngục, ngạt thở và chết đói trong dài hạn, bao bọc bởi bốn bức vách của cái bẫy. Tình cảnh của loài người bây giờ giống hệt như số phận của con chuột đó vậy. Điểm khác biệt chính là con người đã tự tạo nên cho mình cái bẫy ấy, tự chui đầu vào bẫy, vì lòng tham, sự kiêu ngạo và ích kỷ của hệ thống kinh tế hiện đại. Sai lầm không thể được sửa chữa, vì nó quá lớn. Và bất cứ ai đang đòi hỏi cắt giảm phát thải khí công nghiệp, rêu rao rằng nên chuyển đổi sử dụng năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió… để bảo vệ nền khí hậu Trái Đất, thì họ hoặc là quá ngây thơ, hoặc là vì mục đích kiếm lợi nhuận từ một khuynh hướng kinh doanh năng lượng mới của giới tư bản Mỹ và phương Tây.
Đây mới chỉ là TIN BUỒN SỐ 3. Chúng tôi có đến 5 TIN BUỒN dành cho tất cả chúng ta. Các bạn đón chờ xem tiếp nhé. Hãy mở to mắt, hãy suy nghĩ về định mệnh dành cho loài người.
Thực ra, định mệnh của loài người đã được quyết định kể từ khi các bản năng động vật của con người ủng hộ một nền triết học, văn hóa, khoa học duy lý, chiều theo các nhu cầu cấp thấp của con người, coi trời bằng vung, xem đất như là nô lệ, và do đó, xây dựng một hệ thống kinh tế tư bản cố sống cố chết tìm đủ mọi cách để khai thác, bóc lột thiên nhiên và cả con người một cách khéo léo, nhưng khi vấn đề xảy ra thì lại tỏ ra kiêu ngạo, nghĩ rằng mình có thể hiểu và giải quyết được tất cả.
Phần chia sẻ ý kiến